Hiển thị các bài đăng có nhãn Khảo cứu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Khảo cứu. Hiển thị tất cả bài đăng

17 tháng 10, 2013

QUAN ĐIỂM CỦA TÔI VỀ TÔN GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG


  • TẤT CẢ CÁC TÔN GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG ĐỀU DẠY NGƯỜI TA LÀM ĐIỀU TỐT, LÀM LÀNH TRÁNH DỮ, RÈN LUYỆN THÂN TÂM.
  • TẤT CẢ CÁC TÔN GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG ĐỀU BÌNH ĐẲNG NHƯ NHAU.
  • TÔI KHÔNG CUỒNG TÍN CŨNG NHƯ KHÔNG HẠ THẤP HAY TÔN CAO BẤT KỲ MỘT TÔN GIÁO HAY TÍN NGƯỠNG NÀO.
  • NẾU CÓ VIẾT BÀI LIÊN QUAN ĐẾN CÁC TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG, PHONG TỤC, TẬP QUÁN Ở MỌI NƠI TÔI CÓ DỊP ĐẶT CHÂN ĐẾN TÔI SẼ CỐ GẮNG TƯỜNG THUẬT NHỮNG GÌ TÔI THẤY ĐƯỢC, BIẾT ĐƯỢC, HIỂU ĐƯỢC; TUYỆT ĐỐI TRÁNH BÌNH LUẬN (NO COMMENT).

16 tháng 10, 2013

Eid Al-Adha "TẾT BANGLADESH"


Hôm nay là ngày bắt đầu lễ hội hiến tế Eid Al-Adha của người theo đạo Hồi trên khắp thế giới. Với đa số trong 200 triệu dân theo đạo Hồi và là một trong các lễ hội lớn nhất và quan trọng nhất trong năm của Bangladesh, có thể xem Eid Al-Adha như là Tết của người Bangladesh.


PHẦN 1: NGUỒN GỐC LỄ HỘI EID-AL-ADHA:



Trong số các lễ hội Hồi giáo tổ chức trên thế giới Eid ul- Adha hoặc Bakri -Id giữ một vị trí đặc biệt trong trái tim của toàn thể cộng đồng. Ngày thánh này trong tiếng Ả Rập được gọi là Eid al-Adha : Lễ hội của 'hiến tế'
Eid-al- Adha là cực kỳ quan trọng đối với người Hồi giáo
. Lễ này được tổ chức vào ngày thứ 10 của tháng thứ 12 theo âm lịch Hồi giáo, sau khi các cuộc hành hương Hajj hoàn tất, là trụ cột thứ năm của đạo Hồi (sẽ có bài riêng về đạo Hồi sau). Lễ hội được đặt tên theo nguồn gốc của nó nằm trong lịch sử Hồi giáo.

Chuyện rằng vào ngày này rằng Thiên Chúa (Allah) quyết định thử nghiệm đức tin của Abraham. Theo truyền thống Hồi giáo , khoảng bốn ngàn năm trước đây , thung lũng Mecca (​​ngày nay thuộc Saudi Arabia) là một nơi khô cằn trơ đá và đá, không có người ở. Allah hướng dẫn Abraham (Ibrahim trong tiếng Ả Rập) mang Hajar, vợ ông ta, và Ismail (Ishmael), đứa con duy nhất của ông ta mới sinh vào thời điểm đó đến nơi hoang vắng này. Khi Abraham chuẩn bị cho cuộc hành trình trở về lại xứ Canaan, bà vợ Hajar hỏi ông : "Có phải Allah muốn bạn để chúng tôi lại đây ? Hoặc là bạn muốn cho chúng tôi ở lại đây để chết. " Abraham quay lại đối mặt với vợ mình. Ông buồn rầu nói rằng ông không thể nói bất cứ điều gì . Ông chỉ vào bầu trời cho thấy rằng Allah đã truyền cho ông phải làm như vậy . Hajar nói: " Nếu thế, Allah sẽ không lãng phí chúng tôi , bạn có thể đi" . Mặc dù Abraham đã để lại một số lượng lớn các thực phẩm và nước cho Hajar và Ishmael , các nguồn cung cấp vơi đi một cách nhanh chóng, và trong vòng một vài ngày hai người bắt đầu cảm nhận được sự khổ sở của nạn đói và mất nước. Hajar chạy lên và xuống giữa hai ngọn đồi gọi là Al- Safa và Al- Marwah bảy lần, trong cuộc tìm kiếm tuyệt vọng các nguồn nước . Kiệt sức, cuối cùng cô quỵ xuống bên cạnh Ishmael bé bỏng và cầu nguyện sự giải thoát của Allah. Thật kỳ diệu, một nguồn nước tươi mát chảy ra từ trái đất dưới chân của bé Ishmail. Với nguồn cung cấp nước an toàn, được gọi là giếng Zamzam, họ không chỉ đủ cho nhu cầu riêng của họ, mà còn có thể bán nước uống cho khách lữ hành và dân du mục để đổi lấy thực phẩm. Nhiều năm sau, Allah đã hướng dẫn Abraham đã quay trở lại từ xứ Canaan để xây dựng một nơi thờ phượng bên cạnh giếng Zamzam. Abraham và Ishmail xây dựng một cấu trúc đá và vữa - được gọi là Kaaba [chính là hòn đá đen hình lập phương vuông vức, thánh tích số một của đạo Hồi tại Mecca ngày nay-NP]- đó là nơi tập hợp cho tất cả những ai muốn củng cố đức tin của họ vào Allah.
Hòn đá đen thánh tích ngày nay ở Mecca-nơi vợ và con của Abraham được Allah ban cho nguồn nước


  Sau đó, khi Ishmail khoảng 13 tuổi (Abraham là 99), Allah quyết định thử nghiệm đức tin của họ trước công chúng. Abraham đã có một giấc mơ kỳ lạ, trong đó Allah yêu cầu ông ta hiến tế con trai mình, người mà Allah đã ban cho ông sau nhiều năm cầu nguyện. Abraham biết rằng những giấc mơ của các tiên tri được Thiên Chúa linh ứng , và đấy là một trong những cách thức mà Allah truyền đạt ý muốn. Khi giấc mơ đã trở thành rõ ràng với ông , Abraham quyết định thực hiện lệnh của Allah. Trong khi chuẩn bị cho lễ hiến tế, Quỷ Satan cám dỗ Abraham và gia đình của ông để cho hắn thực hiện mệnh lệnh của Allah. Họ đã xua đuổi Satan đi xa bằng cách ném đá vào nó [ngày nay hành động này được tái hiện bởi các người hành hương Hồi giáo bằng cách ném đá vào một trụ cột biểu tượng cho Satan trong các nghi thức Hajj-NP].

Mặc dù Abraham đã sẵn sàng hy sinh
vật thân yêu nhất của mình vì lợi ích của Allah, ông không thể mang con trai của mình đến đàn tế mà không có sự đồng ý cậu ấy. Ishmail phải được tham khảo ý kiến ​​về việc liệu cậu có sẵn sàng từ bỏ cuộc sống của mình để thực hiện các lệnh của Allah. Đây sẽ là mộtthử nghiệm lớn cho sự trưởng thành của Ishmail trong đức tin , tình yêu và cam kết với Allah, sẵn sàng tuân theo cha mình, và sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình vì lợi ích của Allah. [NO COMMENT!]

Abraham trình bày vấn đề này với con trai của mình và Ishmael không
hề do dự chấp nhận hy sinh mạng sống của mình vì lợi ích của Allah.
Abraham hiến tế con trai mình cho Allah

Khi
ở đàn tế Abraham bắt đầu cắt cổ họng của Ishmael , ông rất ngạc nhiên khi thấy rằng Ishmael không hề hấn gì và thay vào đó, ông nhìn thấy một con cừu đực đã bị tay mình cắt cổ họng.  Abraham đã vượt qua thử thách: sẵn sàng thực hiện lệnh của Allah .
   Như một phần thưởng cho sự hy sinh này , Allah đã ban tin lành cho Abraham: sự ra đời của con trai thứ hai của ông , Ishaaq .
Chuyện Abraham đã chỉ ra rằng tình yêu của mình cho Allah thay thế tất cả những người khác : rằng anh sẽ hy sinh mạng sống của mình hoặc cuộc sống của những người thân thiết nhất của anh theo mệnh lệnh của Allah. Người Hồi giáo kỷ niệm hành động tột cùng của sự dâng hiến cho đức tin này mỗi năm. Và đấy là nguồn gốc lễ Eid al- Adha .


(Còn tiếp)




11 tháng 10, 2013

DASHAIN-TẾT NEPAL: "TREO ĐẦU DÊ -BÁN THỊT DÊ"


CHỢ DÊ NGÀY TẾT




Nepal có địa hình hầu hết là núi trải dài từ đồng bằng Ganges (sông Hằng) lên đến sườn phía Nam của dãy Himalaya. Ở vùng đồng bằng phía Nam, bò là con vật dùng để làm việc nặng như kéo xe, cày ruộng trong khi con trâu chỉ nuôi để lấy thịt. Trên các cao nguyên từ 3.000m trở lên, người ta sử dụng con bò có lông dài và dày mà tên địa phương là YAK để thồ hàng hoặc cưỡi. Giá của một con trâu hoặc bò hoặc yak từ 2-5 ngàn USD (trâu, bò, yak baby cũng phải tối thiểu 500USD/con) , trong khi một con dê con chừng 5 đến 10USD. Vì thế có thể nói ở Nepal, con dê là đầu cơ nghiệp.
Xe cộ các loại gặp dê hay bất cứ con thú nào trên đường thì phải chờ nó đi qua hay phải tìm cách né- Subcontinent Style of Life   he he
   Con dê dễ nuôi (lá cây gì cũng ăn được) dễ chăm sóc và mắn đẻ. Khắp Nepal, ở đâu bạn cũng có thể bắt gặp những đàn dê từ vài con đến hàng trăm con được chăn bởi những ông bà già hay vài em bé. Với dê cái, người ta cho sinh sản để nhân số lượng, còn dê đực thì bán thịt. Dê thịt cung cấp hàng ngày cho thị trường nhưng tập trung nhất vào dịp Tết Dashain. Một con dê con nếu chăm sóc tốt suốt cả năm đến mùa Dashain có thể cân nặng 25-30kg. Giá dê hơi theo mình khảo sát ngày hôm qua (09/10/2013) là 500Nepal Rupees/kg (=5USD) . Như vậy một con dê con mua 10USD sau 12 tháng có thể bán 150USD mà hầu như không cần phải tốn thêm chi phí đầu tư chuồng trại (nếu có chuồng trại càng tốt, nếu không có thể cột ở gốc cây trước cửa hay cho chúng vào ngủ ngay trong nhà với người nếu nhà nghèo) hay thức ăn (nếu có thêm bắp lúa thì tốt, còn không thì cứ để chúng ăn lá cây, cỏ hoang). Nếu mùa Dashain, có thể bán được 4-5 con dê thì một gia đình nghèo có thể kiếm được 300-400USD đủ để sắm quần áo mới cho con cái, mua thức ăn ăn uống no nê trong những ngày Tết và có tiền để đi thăm bà con họ hàng; còn có thể dành dụm 100-200USD cho những ngày đói kém của năm tới. (Cảnh này làm mình liên tưởng đến câu chuyện tuổi thơ của Mã phu nhân trong Thiên long Bát bộ của Kim Dung sếnh sáng).


Những cô người mẫu của mình...


  Cảnh tượng những đứa bé lùa đàn dê về nhà trên những con đường núi, hay băng qua một cánh đồng hoa mustard đang trổ hoa vàng rượm cả đất trời lúc hoàng hôn là ấn tượng mà bạn sẽ khôngbao giờ quên nếu gặp được trong những chuyến du lịch ở Nepal. Và một cô bé nựng nịu con dê con sẽ là hình mẫu tuyệt vời cho các bạn mê chụp ảnh tha hồ mà bấm máy.

6 tháng 10, 2013

DASHAIN -TẾT NEPAL: NGÀY 1 – BẮT ĐẦU



Hôm nay là ngày 19 tháng 6 (tháng Ashwin) năm 2070 theo lịch Nepal [05/10/2013 AD] là ngày bắt đầu lễ hội lớn nhất trong năm kéo dài 15 ngày của Nepal: DASHAIN.
 
Ngày đầu tiên của Dashain-Tết Nepal (hôm nay) được gọi là ngày Ghatasthapana. Vào ngày này người Nepal lấy cát từ các con sông thiêng trộn với phân bò rồi đặt vào một cái mâm tròn sau đó gieo hạt giống lúa mạch. Mâm này được đặt trong phòng thờ hoặc cạnh bàn thờ. Các cây mạ non mọc lên từ mâm thờ này được gọi là "Jamara", chúng sẽ được sử dụng trong buổi lễ ban phúc tika vào ngày thứ mười (Vijaya) của lễ hội Dashain.

Gieo Jamara vào ngày Ghatasthapana





Jamara
   Theo truyền thống Vedic của người Hindu Nepal, vào ngày Ghatasthapanatất cả các gia đình sẽ lập một bàn thờ thần Ganesh (thần mình người đầu voi , chủ về may mắn, hạnh phúc, vượt qua tất cả các chướng ngại, thông minh…) thắp một đèn dầu (giữ cho cháy suốt thời gian lễ hội), cùng với một bình Kailash (một bình đựng nước sạch trên miệng bình trang trí bằng lá xoài và hoa , trên cùng đặt một trái dừa khô- Kailash tượng trưng cho của cải tài lộc, thực phẩm dồi dào).

Từ ngày Ghatasthapana, người ta gọi là Navaratri Parba ( chín đêm lễ hội ). Hàng ngàntín đồ Hindu đến cúng bái tại các ngôi đền Mahakali , Mahalaxmi và Mahasaraswati (3 vị nữ thần tối cao của Hindu) mỗi ngày trong suốt 9 ngày Navaratri. Tất cả các cơ sở giáo dục, chính phủ và các cơ quan phi chính phủ sẽ đóng cửa 7-10 ngày trong lễ hội này (bắt đầu từ ngày 5 của Dashain).
  
      Ngày thứ bảy , thứ tám và thứ chín của lễ hội được gọi là Fulpati , Ashtami và Nawami.
 
 Ý nghĩa chính của Dashain là sự chiến thắng của cái Thiện trước cái Ác, khuyến khích mọi người đi theo con đường tốt. Theo sử thi Hindu, nữ thần Bhagawati (hóa thân của nữ thần tối cao Durga) đã giết được Mahishashur biểu tượng của cái ác vào ngày Nawami (ngày thứ 9 của Dashain)
Jamara và tika dùng cho ngày Vijaya Dhasami (ngày 10)
   Ngày thứ mười là ngày quan trọng nhất của lễ hội Dashain. Tương truyền, Thần của lễ hội Dashain: Swing Ram Chandra đã giết chết vua quỷ Raven trong ngày này. Vì vậy, ngày này được gọi là Vijaya Dashami ( ngày chiến thắng ). Vào ngày này tất cả các thành viên trong gia đình sẽ tuần tự nhận Tika (cơm trộn với bột màu đỏ) trên trán và Jamara (mạ non gieo từ ngày đầu của Dashain) trên đầu, tiền lì xì và phước lành từ những người lớn tuổitrong gia đình. Các cấp dưới sẽ đi đến cấp trên của họ và cấp trên ban tika, phước lành cho họ. Mọi người sẽ xí xóa tất cả các sự hiểu lầm, hờn giận của năm cũ cho nhau, vì vậy, lễ hội này còn được coi là lễ hội của sự đoàn kết. Những người ở xa sẽ đi thăm bà con trong dịp Dashain này.

Người Nepal, dù giàu hay nghèo, đều ăn Tết Dashain với một niềm vui lớn. Nhà cửa được quét dọn sơn phết, trang trí đẹp đẽ. Mọi người mặc quần áo mới thăm hỏi lẫn nhau. Mọi gia đình đều nấu các món ăn ngon (có nhiều gia đình nghèo chỉ dịp Dashain này là ăn món thịt, dịp duy nhất trong suốt năm).  Con nít thì chơi đu PING và thả diều, nhiều người tụ tập đánh bài, chơi bầu cua cá cọp….

  Dashain đúng nghĩa là ngày Tết của người Nepal. India và người Hindu ở Bangladesh cũng ăn mừng lễ hội này nhưng đơn giản hơn và chỉ có 5 ngày (sẽ có một bài riêng về lễ hội này ở India).
  Thông thường, thời tiết trong năm tại Nepal sẽ tốt nhất vào dịp Dashain. Năm nay (2013) mùa mưa đến sớm và kéo dài hơn lệ thường, đến tận những ngày này mà trời vẫn âm u và mưa rào khắp nơi.
  Vài ngày nữa mình sẽ xách xe máy lên đường đi đến vùng cực Đông của Nepal, sẽ ăn Tết Dashain dọc đường nhằm quan sát lễ hội này ở vùng sâu vùng xa. Chuyến đi kéo dài hơn 20 ngày và khoảng 2000km. Hy vọng sẽ có "món ngon, chuyện lạ" hầu các bạn.
  Happy Dashain!

Phú Nepal
Mùa Dashain 2013

Mời các bạn xem lại các bài về Dashain của mình các năm trước: 

DASHAIN-TẾT NEPAL: KOJAGRAT PURNIMA ĐÊM THỨC TRẮNG ĐÓN NỮ THẦN THỊNH VƯỢNG MAHALAXMI

NHẬN BAN PHÚC "TIKA" TỪ TỔNG THỐNG NEPAL

DASHAIN- TẾT NEPAL: NGÀY THỨ 7 PHULPATI

DASHAIN- TẾT NEPAL: NGÀY THỨ 8 DURGA ASHTAMI

DASHAIN- TẾT NEPAL: NGÀY THỨ 9 MAHA NAVAMI - DIỆN KIẾN LIVING GODDESS KUMARI

DASHAIN- TẾT NEPAL: NGÀY THỨ 10 VIJAYA DASHAMI



5 tháng 10, 2013

DASHAIN-TẾT NEPAL: NGÀY 1 - BẮT ĐẦU



Hôm nay là ngày 19 tháng 6 (tháng Ashwin) năm 2070 theo lịch Nepal [05/10/2013 AD] là ngày bắt đầu lễ hội lớn nhất trong năm kéo dài 15 ngày của Nepal: DASHAIN.
 
Ngày đầu tiên của Dashain-Tết Nepal (hôm nay) được gọi là ngày Ghatasthapana. Vào ngày này người Nepal lấy cát từ các con sông thiêng trộn với phân bò rồi đặt vào một cái mâm tròn sau đó gieo hạt giống lúa mạch. Mâm này được đặt trong phòng thờ hoặc cạnh bàn thờ. Các cây mạ non mọc lên từ mâm thờ này được gọi là "Jamara", chúng sẽ được sử dụng trong buổi lễ ban phúc tika vào ngày thứ mười (Vijaya) của lễ hội Dashain.

Gieo Jamara vào ngày Ghatasthapana





Jamara
   Theo truyền thống Vedic của người Hindu Nepal, vào ngày Ghatasthapana tất cả các gia đình sẽ lập một bàn thờ thần Ganesh (thần mình người đầu voi , chủ về may mắn, hạnh phúc, vượt qua tất cả các chướng ngại, thông minh…) thắp một đèn dầu (giữ cho cháy suốt thời gian lễ hội), cùng với một bình Kailash (một bình đựng nước sạch trên miệng bình trang trí bằng lá xoài và hoa , trên cùng đặt một trái dừa khô- Kailash tượng trưng cho của cải tài lộc, thực phẩm dồi dào).

Từ ngày Ghatasthapana, người ta gọi là Navaratri Parba ( chín đêm lễ hội ). Hàng ngàn tín đồ Hindu đến cúng bái tại các ngôi đền Mahakali , Mahalaxmi và Mahasaraswati (3 vị nữ thần tối cao của Hindu) mỗi ngày trong suốt 9 ngày Navaratri. Tất cả các cơ sở giáo dục, chính phủ và các cơ quan phi chính phủ sẽ đóng cửa 7-10 ngày trong lễ hội này (bắt đầu từ ngày 5 của Dashain).
  
      Ngày thứ bảy , thứ tám và thứ chín của lễ hội được gọi là Fulpati , Ashtami và Nawami.
 
 Ý nghĩa chính của Dashain là sự chiến thắng của cái Thiện trước cái Ác, khuyến khích mọi người đi theo con đường tốt. Theo sử thi Hindu, nữ thần Bhagawati (hóa thân của nữ thần tối cao Durga) đã giết được Mahishashur biểu tượng của cái ác vào ngày Nawami (ngày thứ 9 của Dashain)

24 tháng 5, 2013

ĐỨC PHẬT SAKYA ĐẢN SANH - SỰ THẬT HAY HUYỀN THOẠI?

KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN 2557

Tượng Phật đản sanh có "thần" nhất, đẹp nhất mà tôi từng được biết. Vốn dĩ là một pho tượng đồng, không biết vì lý do gì người ta phủ những lớp sơn thật dầy lên toàn pho tượng. Thời gian đã cải chính những lỗi lầm của những người sơn tượng. Những dấu vết ngẫu nhiên mà thời gian mấy chục năm qua lưu lại đã hoàn thiện bức tượng. Hãy ngắm đôi mắt của tượng, ta như cảm thấy lòng từ bi, sự xót thương cho chúng sinh của Trái Đất này trầm luân trong Vòng Luân Hồi. Tượng được đặt trong khu vườn bên trái của ngôi chùa Quốc Gia Nepal ở Lumbini.Đây là ngôi chùa đầu tiên tại Lumbini (thập niên 1950) do chính phủ hoàng gia Nepal dựng nên.




 Sau đây xin mời các bạn xem qua bài nghiên cứu rất hay của tác giả Tâm Quảng

****************
Tác giả: Tâm Quảng
Lời cảm tạ:  Tác giả chân thành cảm tạ GS TS Trần Thị Lợi, nguyên chủ nhiệm Bộ Môn Phụ Sản trường Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh đã đọc bài viết trước đây của tôi về đề tài này (Đức Phật ra đời như thế nào?) và đã gợi cho tôi nhiều ý kiến quý báu để tôi viết lại bài này.  

13 tháng 5, 2013

CÁC BÉ SAKYA XUẤT GIA NGÀY CÁT TƯỜNG

  Hôm nay, 13/05/2013, theo lịch Ấn/Nepal là ngày tốt lành nhất trong cả năm. Mình đến thành phố cổ Phật giáo Patan để xem Lễ hội Macchindranath Rato- Lễ hội Phật giáo lớn nhất, cổ xưa nhất cả Kathmandu và Nepal.
  Mãi đến 4 giờ lễ hội mới bắt đầu nên mình tranh thủ ghé thăm mấy người bạn họ Sakya (Thích-ca). Tán gẫu với anh bạn Asoka Shakya mới hay nhân ngày tốt này, cộng đồng Shakya có làm lễ Chuda Karma cho các bé trai trong họ tại Golden Temple. Đây là một phong tục có từ thời Đức Phật Sakya, bắt nguồn từ sự kiện Ngài làm lễ xuất gia cho 500 vương tử Sakya ở thành Kapilavastu.
  Mình tranh thủ chụp một số ảnh các bé trai Sakya như là bonus cho ngày Akshaya Trithiya (đúng là may mắn nhân lên gấp bội hi hi).
   Mời các bạn xem qua hình ảnh các bé trai Sakya trong lễ Chuda Karma. Dễ thương quá phải không?
  
Phía dưới là bài về lễ này đã đăng trên nguyệt san Giác Ngộ năm 2006.
*************





NGÀY TỐT LÀNH NHẤT TRONG NĂM

THÔNG BÁO KHAI TRƯƠNG BLOG MỚI: PHÚ-NEPAL (phunepal.blogspot.com)

 MỞ HÀNG
Các bạn thân mến,
Trân trọng cám ơn các bạn trong thời gian qua đã viếng thăm ngôi nhà tranh vách đất "blog nguyenphunepal". 
  Nhận thấy nhà cũ nay đã quá chật chội nên mình xin lập ra một blog mới để phân luồng bài viết của mình có trật tự hơn, giúp bạn đọc dễ dàng tìm thấy cái mình cần.
  Blog mới phunepal.blogspot.com này sẽ dành riêng cho các bài nghiên cứu LỊCH SỬ-VĂN HÓA-TÔN GIÁO các nước Nam Á (Nepal, India, Bangladesh, Sri Lanka, Bhutan, Pakistan, Afghanistan) và Tibet.
 Blog cũ nguyenphunepal.blogspot.com sẽ dành cho các bài về THỜI SỰ-CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI ưu tiên theo thứ tự: Việt Nam, Châu Á, Thế giới.
 Các bài phù hợp với Blog mới sẽ được chuyển sang lưu trữ bên blog mới, cũng như hai trang này sẽ liên thông với nhau.
  Tham vọng thì lớn, không biết có đủ sức và có làm nổi không, nhưng xin hứa sẽ cố gắng hết mình, mong các bạn ủng hộ.
  Về comment, mình vẫn xin giữ truyền thống "khóa comments" mong các bạn thông cảm. Mọi ý kiến đóng góp xin liên lạc qua Email phujourney@gmail.com.
   Trân trọng
 Phú Nepal
Xin mời các bạn xem qua bài mở hàng cho blog mới này:
****************************************************** 

 NGÀY TỐT LÀNH NHẤT TRONG NĂM

Hôm nay là Ngày-Cát-Tường-Nhất-Trong-Năm theo Văn Minh Ấn Độ, mùng 4 tháng Vaishak  (mùng 4 tháng 2 của lịch Ấn; còn theo Âm lịch Việt là mùng 4 tháng 4); năm 2013 rơi vào ngày 13/05. Ngày này có tên gọi là ngày Akshay Trithiya hay còn gọi là Akha Teej.
   Điểm đặc biệt dễ nhận thấy nhất vào ngày này là người Ấn đổ xô đến các tiệm vàng để mua… vàng; còn tất cả các công ty, cơ sở làm ăn buôn bán thì mở sổ kế toán cho năm mới.
NGÀY CÁT TƯỜNG
Akshay Trithiya là ngày may mắn đỉnh điểm cả năm. Đây là ngày mà làm việc gì cũng khỏi cần phải coi ngày giờ gì cả (dân Ấn rất mê tín trong việc coi ngày giờ làm ăn, xuất hành, khởi công, cưới gả…). Ngày này là ngày có rất nhiều đám cưới diễn ra trên khắp lục địa Ấn Độ.
  Vì sao ngày Akshay Trithiya được coi là ngày Cát Tường?

28 tháng 4, 2013

HỆ THỐNG THẦN LINH ẤN ĐỘ GIẢN DỊ HÓA



 Có rất nhiều cứ liệu chứng tỏ rằng người Việt nhận nhiều ảnh hưởng của văn minh Ấn không kém gì văn minh Trung Hoa. Nghiên cứu văn minh Ấn, so sánh đối chiếu để khám phá lại các vết tích văn minh-văn hóa Ấn trong tâm thức Việt để hoàn thiện “bản sắc Việt” cũng là một con đường “thoát Hán” hiện nay cho người Việt.

 .........................


   Ấn Độ đầy bí ẩn và huyền hoặc có thể làm choáng ngợp bất cứ ai mới tiếp xúc với nền văn minh thâm hậu này. Một trong những vấn đề làm rối nhiều “người ngoài” chưa quen thuộc với văn hóa Ấn nhất chính là hệ thống thần linh Hindu.
       Tầng tầng lớp lớp các vị thần, nhiều đến mức có vị thần có đến chục vạn tên gọi và hóa thân…nhiều đến nỗi các Brahmin thông thái nhất cũng không thể nào nhớ hết tên các vị thần của điện thờ Hindu… nhiều đến mức có người nói rằng số lượng các vị thần Hindu còn nhiều hơn cả dân số Ấn Độ… Không thể “cảm” được văn hóa Ấn nếu không “hiểu” được hệ thống thần linh Hindu. Tham vọng của tác giả trong loạt bài về chủ đề này là “giản dị hóa” hệ thống thần linh Hindu để độc giả có thể đặt bước chân thành kính đầu tiên vào ngôi đền Ấn Độ giáo. Thiết nghĩ nghiên cứu Hindu (Ấn Độ giáo) là một việc rất đáng quan tâm với người Việt ta. Ở phía Nam, đã từng có những nền văn minh Óc Eo, Chân Lạp, Cát Tiên, Champa chịu ảnh hưởng sâu đậm và trực tiếp từ văn hóa Hindu. Ở phía Bắc, có nhiều hiện vật và phong tục của người Việt mang đậm tính chất Hindu. Ở miền Trung, suốt 500 năm qua, qua sự chung sống cùng nhau giữa người Chăm và người Việt, rất nhiều các yếu tố Hindu đã xâm nhập vào tâm thức người Việt sinh sống trên lãnh thổ xưa của Champa cho đến tận mũi Cà Mau. Với giới nghiên cứu, rất nhiều cán bộ, quan chức ngành văn hóa-bảo tàng tại các nơi có di tích Hindu (hầu như khắp từ Đà Nẵng cho tới Kiên Giang) rất cần trang bị kiến thức về Hindu để có thể “hiểu” và “cảm” các hiện vật vô giá của các nền văn minh Hindu đã từng tồn tại và phát triển rực rỡ tại Việt Nam như Óc Eo, Chân Lạp, Cát Tiên, Champa, để có thể bảo tồn các giá trị tinh thần độc đáo ấy. Ngay cả tôn giáo có nhiều tín đồ tại Việt nam hiện nay là Phật giáo thì cũng xuất phát từ vùng đất Hindu-Ấn Độ và Phật giáo đã truyền từ Ấn Độ sang Việt Nam trước khi đổ bộ lên Trung Hoa. Để hiểu Phật giáo sâu sắc hơn, theo thiển kiến của tác giả, có lẽ phải nghiên cứu Hindu để nhìn thấy lại “cái nền” mà trên đó Sakya Muni (Bậc thông tuệ họ Sakya- tức Phật Sakya) đã sử dụng để xây nên ngôi nhà Phật giáo (có thể thấy qua Jataka-chuyện tiền thân Phật), cũng như tránh các lầm lạc “tam sao thất bổn” do du nhập Phật giáo không chính thống từ Trung Hoa phải qua ít nhất hai lần phiên dịch và bị Hán hóa sâu nặng suốt cả ngàn năm nay. Có rất nhiều cứ liệu chứng tỏ rằng người Việt nhận nhiều ảnh hưởng của văn minh Ấn không kém gì văn minh Trung Hoa. Nghiên cứu văn minh Ấn, so sánh đối chiếu để khám phá lại các vết tích văn minh-văn hóa Ấn trong tâm thức Việt để hoàn thiện “bản sắc Việt” cũng là một con đường “thoát Hán” hiện nay cho người Việt.

*****************

THẦN THÁNH CŨNG BIẾT… CƯỜI

THƯ GIÃN CUỐI TUẦN: THẤY VẬY CHỚ HỔNG PHẢI VẬY BÀI 3
 

THẤY VẬY CHỚ HỔNG PHẢI VẬY : BÀI 1

Một đặc điểm của người Ấn (hay người thuộc văn minh Ấn) là tính hài hước, hóm hỉnh. Ngay cả các vị thần cũng không sống ngoài không gian hóm hỉnh đầy thông tuệ của người Ấn. Có thể nói các vị thần Hindu rất “người”!

1/ INDRA-THỦ LĨNH CÁC VỊ THẦN-BỊ MANG NGHÌN “CON MẮT”

   Thủ lĩnh các vị thần trong hệ thống Hindu là Indra –Thần Mưa, Hán gọi là Đế Thích. Cần nhớ rõ Indra chỉ là thủ lĩnh của các Deva (bán thần) chỉ cai trị cung Trời (Svargaloka- heaven); thấp hơn God (Thần), và ba vị thần tối cao Trinity là các God cai trị cả vũ trụ: Shiva, Vishnu và Brahman.
  Indra vốn rất ham thích sắc đẹp phụ nữ. Một hôm, cầm lòng không đặng nên Indra đã quyến rũ một phụ nữ xinh đẹp đã có chồng. Chồng của phụ nữ này là một rishi (hành giả Hindu) tên là Bhrigu. Nổi cơn ghen vì bị cắm sừng, vị rishi này bèn rủa Indra rằng: “ Vì ông bị ám ảnh bởi thân thể phụ nữ ông sẽ mang một ngàn “âm hộ” trên khắp cơ thể ông!”

 
Hình ảnh của một vị thủ lĩnh mang đầy “âm hộ” ngồi trên ngai vàng của thiên đường quả là chẳng tôn nghiêm chút nào,

15 tháng 4, 2013

CHÚC MỪNG NĂM MỚI BANGLADESH-NEPAL-ẤN ĐỘ

  NHÂN DỊP NĂM MỚI Ở BANGLADESH-NEPAL-ẤN ĐỘ KÍNH CHÚC CÁC BẠN MỘT NĂM ĐẦY HẠNH PHÚC VÀ NIỀM VUI!


 

Mình đang cố gắng viết chi tiết về "Tết" ở Nam Á, mong các bạn đón xem. 

7 tháng 4, 2013

TRANG ĐIỂM VÀ TRANG SỨC CỦA PHỤ NỮ ẤN ĐỘ

THƯ GIÃN CUỐI TUẦN:

   Mình vốn "favour" vẻ đẹp của phụ nữ Ấn. Lúc mới lớ ngớ đến Ấn Độ và Nepal, mình chưa hiểu biết gì về phong tục tập quán của người ở Tiểu Lục địa cho nên mặc dù cái thằng họa sĩ mê sắc đẹp trong mình cứ háo hức muốn chiêm ngưỡng vẻ mặn mà của người đẹp miền Bắc Ấn, nhưng cứ phải lấm lét vì sợ vi phạm những điều cấm kỵ của phong tục địa phương trong việc giao thiệp với người khác giới. Không khéo có thể bị chồng hay người thân của họ rượt mà đập cho một trận thì xúi quẩy cả đời hi hi... Cho nên mình cố gắng tìm hiểu các "chỉ dấu" để nhận biết đâu là một phụ nữ Ấn đã kết hôn (các chỉ dấu này cũng có thể áp dụng cho cả Nepal).
  Các kiểu trang điểm và trang sức sau đây dành cho các phụ nữ đã kết hôn, không chỉ tôn thêm nét đẹp của họ mà còn là những dấu hiệu quan trọng đánh dấu một cuộc đời mới của người phụ nữ.
  He he mời các bác "háo sắc" ghi nhớ 16 dấu hiệu này để .... thận trọng khi tiếp xúc vì họ là người đã có chồng....

  Đầu tiên, họ sẽ mặc chiếc sari màu đỏ, và ...


29 tháng 3, 2013

CẶP ĐÔI HOÀN HẢO CỦA THẦN THOẠI ẤN ĐỘ



THẤY VẬY CHỚ HỔNG PHẢI VẬY : BÀI 2

LỜI DẪN: Jade là một chuyên gia về Trí thông minh nhân tạo (Artificial Intelligence) từ Singapore đến Nepal để nghiên cứu các văn bản cổ đại ở đây. Cô được Lasta, nữ sĩ quan tình báo Nepal dưới vỏ bọc một Chuyên viên Quan hệ công chúng của một tập đoàn lớn, hướng dẫn thăm viếng các di tích cổ của Nepal... 
CHƯƠNG 16

      Lasta chỉ một cái đền nhỏ, “Đấy là Đền Shiva-Parvati.” Cô dắt tay Jade đi đến ngôi đền ấy.
  Trên các vì kèo và tường của ngôi đền này trang trí các bức chạm gỗ gợi tình (Erotic scenes), mô tả các lạc thú của tình yêu. Jade thẹn đỏ mặt khi nhìn thấy các hình ảnh ấy. Cô nghĩ thầm – “Sao họ có thể làm như thế? Trang trí một nơi thờ phượng tôn nghiêm với các cảnh từ Kama Sutra… Không thể tưởng tượng được!”
Đền Shiva-Parvati trong khuôn viên quần thể khu đền Pashupati thiêng liêng nhất của Hindu Nepal

 
Các hình chạm khắc gợi tình (erotic) của đền Shiva-Parvati

Xin bấm vào hình để phóng to lên




   Như hiểu ý Jade, Lasta liền giải thích, “Đừng hiểu nhầm, cô bạn của tôi ơi. Những bức điêu khắc gỗ này không làm ô uế ngôi đền này đâu. Chúng là những kiệt tác tôn vinh những tình nhân vĩ đại của loài người, những vị thần Sáng Tạo và Hủy Diệt của vũ trụ, Shiva và Parvati. Chúng không phải là những hình ảnh “con heo” 3D đâu, mà chính là những biểu tượng của sự hợp nhất các yếu tố Âm và Dương trong vũ trụ theo Mật tông Hindu. Chúng chỉ xuất hiện ở những ngôi đền của, hoặc liên quan đến Shiva và Parvati-Những vị thần của sự sáng tạo và hủy diệt, yêu thương và hy sinh. Những bức chạm khắc này mô tả triết lý của Vòng Sinh-Tử vô cùng tận.”


   Jade vô cùng ngạc nhiên trước những kiến thức thâm sâu của cô gái còn rất trẻ này.
   Cô gái Nepal liền kể cho Jade nghe chuyện tình của Shiva và Parvati, một trong những chuyện tình cảm động nhất của loài người.
  “Xưa kia, thần Daksha có một cô con gái xinh đẹp tên là Sati. Daksha mong có một chàng rể quý đẹp trai, danh giá hơn là anh chàng lông bông Shiva hay lê la cùng với bọn nghèo khổ. Tuy nhiên, trái với ước nguyện của cha mình, Sati đã trao cho Shiva trái tim mình ngay từ lần gặp đầu tiên bất kể vẻ ngoài kinh khiếp của chàng. Anh ta có làn da sạm nắng, tóc dài chấm vai, quấn một tấm khố bằng da hổ, tay cầm một cái chĩa ba và một cái trống damru. Một con rắn hổ mang quần trên cổ anh ta như một vòng đeo sống động. Khi Sati đến tuổi cập kê, theo phong tục, Daksha tổ chức một buổi lễ gọi là Swayamvara cho con gái yêu (Swayamvara= buổi lễ chọn chồng cho các cô gái). Daksha mời tất cả các vị thần trai trẻ xinh đẹp đến dự để Sati chọn, nhưng cố tình không mời Shiva. Sati lướt mắt tìm khắp nơi mà không thấy Shiva, cô liền khấn nguyện và tung vòng hoa lên trời. Vòng hoa bay lượn trên không trung và đáp xuống choàng vào cổ anh chàng Shiva đang ngủ vùi bên một đống tro sau một đêm say sưa hát hò cùng bè bạn. Daksha cay cú lắm nhưng đành phải gả Sati cho Shiva. Chàng đưa nàng về ngọn núi thiêng Kailash, lãnh địa của chàng. 
 
Shiva và Sati
Vẫn còn oán ghét chàng rể điên điển nên vào một dịp lễ hội khác Daksha cố tình không mời Shiva đến dự. Sati phải về dự lễ một mình. Trong lúc hội hè tưng bừng Daksha lại buông lời sỉ nhục Shiva trước mặt tất cả các vị thần. Để bảo vệ danh dự của chồng, Sati nhảy vào đống lửa thiêng tự sát. (Đấy là nguồn cội của phong tục “Sati” của đạo Hindu. Theo phong tục này người vợ tự thiêu sau cái chết của chồng để bày tỏ sự chung thủy-Chúng ta không phán xét ở đây chỉ ghi nhận lại lịch sử và phong tục- NP). 
Sati tự thiêu
 


Shiva bồng xác Sati chạy cuồng loạn khắp nơi
 Đau buồn vô hạn trước cái chết của người vợ yêu, Shiva mất trí. Ông bồng xác vợ tuôn chạy cuồng dại khắp nơi làm cho mặt đất chấn động, đe dọa tới sinh mạng của muôn loài. Để cứu thế giới, thần Vishnu liền hóa phép cắt thi hài của Sati thành nhiều mảnh rơi xuống nhiều nơi trên đất Ấn, Tuyệt vọng, Shiva lầm lũi quay về ẩn cư trên núi Kailash. Sati sau đó tái sinh làm con gái của thần núi Himavan (Himalaya) với tên Uma họ là Himavati, nhưng thường được biết đến với mỹ danh Parvati (nghĩa là vô tội, thánh thiện). Kiếp này Parvati cũng lại yêu Shiva vì số phận của họ đã đan bện vào nhau. Tuy thế, Shiva đã chọn một đời sống ẩn dật, tịnh khẩu, không tiếp xúc với người ngoài. Chàng suốt ngày ở trong hang đá đắm chìm với tình yêu vô vọng dành cho Sati. Trong khi đó, cô gái xinh đẹp con gái của thần núi Himalaya lại từ chối tất cả các lời cầu hôn của các chàng trai, giữ vẹn lòng chung thủy với người duy nhất mà cô yêu từ kiếp trước. Cô chờ đợi Shiva hết năm này sang năm khác và cầu nguyện sẽ được cùng chung sống với người yêu một lần nữa. Parvati sau đó bỏ vào rừng sống đời một đạo sĩ Yogi trong khu rừng bên cạnh hang đá của Shiva. Hàng ngày nàng vào hang quét dọn sạch sẽ, trang hoàng hoa rừng khắp hang đá nhưng thủy chung Shiva vẫn không để mắt tới bất cứ ai. Thần tình yêu Kamadeva (người tương truyền đã ban Kama Sutra cho dân Ấn) muốn giúp Parvati nên lẻn vào hang dùng cánh cung bằng cây mía bắn một mũi tên tẩm mật vào người Shiva. Shiva mở bừng con mắt thần giữa trán thiêu Kamadeva ra tro. Họ sẽ mãi ở cạnh nhau mà không bao giờ gặp nếu các vị thần không kéo đi khuấy Biển Sữa (Tích khuấy Biển Sữa xin xem ở đây) làm chất độc Halahala trồi lên đe dọa đến toàn bộ vũ trụ. Chỉ có một mình Shiva mới có thể cứu chuộc thế giới (Tích Shiva cứu thế giới xin xem CHÚ THÍCH ở cuối bài này). Khi ấy Vishnu đã mang Parvati đặt trước mặt Shiva để đánh thức ông khỏi cơn trầm uất. Mặt đối mặt, họ nhận ra rằng mỗi người là một nửa của nhau và từ khoảnh khắc ấy, không gì có thể chia cắt họ được nữa. Với sức mạnh của tình yêu (chỉ sự hợp nhất toàn bộ các yếu tố và năng lượng của vũ trụ- NP), Shiva đã đánh bại thế lực hắc ám và cứu được thế giới. Khi cả hai tái hợp cùng nhau, sức mạnh tình yêu của họ đã phục sinh Kamadeva từ đống tro tàn…”
 
Shiva và Parvati
    “Ô, đây là một chuyện tình kỳ diệu nhất mà mình từng được nghe,” Jade thở dài. “Ước gì mình cũng có được một tình yêu như thế…”
     
 Lasta tiếp tục kể:” Cặp đôi thần thánh này đã cứu thế giới không chỉ lần ấy mà còn nhiều lần sau này nữa. Lần nọ có một con quỷ hung bạo tên là Rakta Veeja (nghĩa là Hạt-Giống-Máu) đe dọa thế giới. Mỗi một giọt máu của nó rơi xuống chạm mặt đất sẽ biến thành hàng ngàn con quỷ con hung bạo giống hệt như nó. Không ai và không một vị thần nào có thể tiêu diệt được lũ quỷ sinh sản không ngừng ấy. Durga (Durga là một hóa thân khác của Parvati trong hình tướng nữ chiến binh cuồng nộ) nổi cơn thịnh nộ. Và từ con mắt thứ ba giữa trán của nữ thần xẹt ra một nữ thần da đen thui, tóc dài bay tung tõa và có bốn tay. Nữ thần này cầm  một thanh kiếm sắc, tay khác cầm một nắm đầu quỷ mới bị chặt, cổ đeo xâu chuỗi cũng bằng các đầu lâu quỷ và mặc một cái váy làm bằng các cánh tay bị chặt của quỷ. Mắt bà long sòng sọc, đỏ rực như than hồng. Đó chính là Kali (Sanskrit là Kaalaratri – Nữ thần đen như bóng đêm. Thường gọi là Kali nghĩa là ĐEN). Trông thấy bọn quỷ con, Kali gầm lên xông vào bọn chúng và chém như cắt rạ. Cái lưỡi của Kali thè dài ra hứng lấy tất cả những giọt máu mà Rakta Veeja tung xuống đất, chính vì vậy mà dừng lại được sự sinh sản ra bọn quỷ con. Cuối cùng chỉ còn lại mỗi mình Rakta Veeja, Kali chặt đầu con quỷ này và ăn sống nuốt tươi nó tránh để máu của nó có cơ hồi sinh trở lại. Sự khủng khiếp của cuộc chiến, cùng với lượng máu đầy chất độc của Sakta Veeja làm Kali mất tự chủ, hóa điên và nhảy múa cuồng loạn. Mặt đất rung chuyển dưới từng bước chân của vị nữ thần hung tợn và toàn bộ vũ trụ có nguy cơ bị tàn phá. Lần này đến lượt Shiva. Ông liền nằm xuống dưới chân Kali chịu đựng các cú giẫm đạp của bà cho đến khi bà kềm chế được cơn thịnh nộ. Chính vì thế, bạn sẽ thấy các nghệ sĩ mô tả Kali trong hình thức một nữ thần đen nhẻm cầm một hoặc một nắm đầu lâu, lưỡi thè lè ra khỏi miệng và dẫm lên thân thể một người đàn ông.”


Nữ thần Kali

 ********************************************
CHÚ THÍCH: lễ hội Maha Shivaratri (Đêm vĩ đại của Shiva), là lễ hội quan trọng nhất của tín đồ Hindu theo phái Shaivism (phái này thờ thần Shiva như vị thần tối cao, trong khi phái thứ hai là Vaishavism thì tôn thờ Vishnu như chúa tể vũ trụ) diễn ra vào ngày trăng non của tháng Falgun theo lịch Ấn Độ (khoảng cuối tháng Hai đầu tháng Ba Tây lịch). Hàng triệu tín đồ Hindu từ khắp các nước Ấn Độ, Bangladesh, Malaysia, Mỹ, châu Âu,… hành hương về địa điểm linh thiêng nhất của Hindu giáo ở Nepal: ngôi đền thiêng Pashupati ở Kathmandu.


Thần Shiva nuốt Halahala để cứu muôn loài.
Theo thần thoại Hindu, có một lần thế lực hắc ám đe doạ huỷ diệt vũ trụ dưới hình thức Halahala (chất tối độc trồi lên khi các vị thần khuấy đảo Đại dương Sữa huyền thoại để tìm thuốc trường sinh – hạnh phúc). Với tư cách là Người bảo vệ vũ trụ, thần Shiva đã nuốt chửng chất độc ấy để cứu tất cả muôn loài. Chất độc bỏng cháy cổ họng Shiva và làm thân thể Ngài lạnh giá. Ngài chạy băng trên những ngọn núi tuyết của Himalaya để làm dịu nó đi. Dừng chân tại một cánh rừng, những thợ săn thấy Ngài run rẩy vì lạnh nên đã vội vàng chạy đi gom củi khô, đốt lên một đống lửa to để sưởi ấm cho Ngài.
Ganga (nữ thần sông Hằng) đã mang nguồn nước tinh khiết từ thượng nguồn của các dòng sông để hạ nhiệt cho cổ họng của Shiva. Nhưng vẫn chưa đủ. Cho đến khi thần Chandra (mặt trăng) chui vào trong mái tóc dài rậm của Shiva giải toả sức nóng đang nung đốt trong đầu và luồng hơi lạnh giá trong cơ thể Ngài. Sau những giây phút “xuống địa ngục rồi lên đỉnh”, Shiva vô cùng phấn khích và bắt đầu hân hoan nhảy múa vũ điệu tandawa nritya.
Chính vì thế, ngày trăng non ấy được gọi là Maha Shivaratri để kỷ niệm ơn cứu mạng của Shiva với muôn loài, còn khu rừng ấy nay là khu vực toạ lạc ngôi đền thiêng Pashupati (tên gọi cổ và nguyên thuỷ của Shiva, nghĩa là Người bảo vệ muôn loài).

25 tháng 3, 2013

YẾU TỐ ÂM DƯƠNG TRONG MẬT TÔNG HIMALAYA


THẤY VẬY CHỚ HỔNG PHẢI VẬY : BÀI 1

LỜI DẪN: xin trích dịch lại đây vài đoạn trong bản thảo cuốn sách mà mình sắp xuất bản. Sách viết bằng tiếng Anh nên phải dịch lại he he... vì thế giọng văn chắc chắn là không thuần Việt rồi, mong các bạn thông cảm!

Tạm đặt tên cho đoạn này: YẾU TỐ ÂM DƯƠNG TRONG MẬT TÔNG HIMALAYA
 (trong sách đây là chương Ba, không có tên)

CHƯƠNG BA

 
Raj đưa cho Don mảnh giấy mà ông vừa vẽ trên đó, “Cậu có biết cái này là cái gì không?”
Don nhìn lướt qua tờ giấy, trên đó có một hình vẽ ngôi sao sáu cánh
 “Đừng nói với tôi đó là Ngôi sao David mà Dan Brown đã đề cập trong quyển Mật mã Da Vinci nha…” Don cười. Nhưng khi thấy vẻ mặt nghiêm túc của Raj, anh vội vàng nói, “Xin lỗi! Tôi nói đùa…”
  Raj gật đầu, “Không sao. Đấy thực sự là Ngôi sao David, biểu tượng của Do thái giáo và cộng đồng Do thái. Tuy nhiên, nó cũng được sử dụng bởi đạo Hồi, Thiên chúa giáo và các tôn giáo Đông phương khác. Trong đạo Hồi, nó được gọi là Khatem Sulayman-Con dấu của Solomon và Najmat Dawuud-Ngôi sao David. Rất nhiều thánh đường Hồi giáo trang trí ngôi sao sáu cánh này. Anh cũng đã biết rằng, Thiên chúa giáo cũng thờ phụng ngôi sao này.”
   Ông hoàng Nepal ngừng lại, nhấp một ngụm trà xanh, đoạn tiếp tục với một giọng nói chậm rãi, rõ ràng, “Tuy nhiên, ở Lục địa India, trước khi trở thành ngôi sao sáu cánh, biểu tượng này được sắp xếp như là hai tam giác chạm vào nhau như thế này…” Raj vẽ một hình khác:  “”.