Hiển thị các bài đăng có nhãn Asoka. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Asoka. Hiển thị tất cả bài đăng

17 tháng 11, 2013

LỄ HỘI GANESH JATRA Ở CHABAHIL-KATHMANDU


GANESH JATRA 2013


  Đây có thể là lễ hội xưa nhất của Kathmandu còn tồn tại cho đến ngày nay (khoảng hơn 2200 năm).
Ganesh Jatra kéo dài bốn ngày bắt đầu từ tối hôm nay. Là lễ hội của cộng đồng dân bản địa Newar khu vực Chabahil. Đây là thủ đô xưa nhất của người bản địa Thung Lũng Kathmandu, tên là Deopatan  (Deo: thần thánh; Patan: thành phố- Deopatan: Thành phố thần thánh, một cách xưng tụng thủ đô thời cổ đại).
 Người bản địa xưa hơn hết ở Kathmandu Valley là người Kirat (chính là một bộ tộc thuộc sắc dân Naga, xưa kia India gọi là Mleccha [Mã Lai theo cách dịch của ông Bình Nguyên Lộc). Tộc Kirat này đã từng được ghi nhận trong lịch sử India qua việc tham gia trận đại chiến Bharat nổi tiếng , sau này ghi lại thành sử thi Mahabharata. Khi Alexander tấn công India, Chandragupta Maurya (ông nội của  Asoka) được sự giúp đỡ của các đội quân thiện chiến người Kirat đã chặn đứng bước tiến qua phía Đông của vị hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Tây phương. Sau đó, Chandragupta thành lập nên đế chế Maurya nổi tiếng.
 Asoka, sau khi đã trở thành một Phật tử thuần thành, có làm một cuộc hành hương thăm viếng hầu khắp các thánh tích Phật giáo ở India. Sau khi thăm viếng Lumbini và dựng trụ đá ở đó, Asoka vượt qua dãi Terai đi lên tận Thung Lũng Kathmandu là thủ đô của vương quốc Kirat thời bấy giờ. Tại Kathmandu, ông xây dựng 5 bảo tháp ở nơi ngày nay là thành phố Phật giáo Patan. Ông gã con gái của mình, Công chúa trưởng Charumati cho một hoàng tử Kirat. Sau đó Asoka quay về lại India còn Charumati ở lại Thung lũng Kathmandu.

7 tháng 3, 2013

VỀ VỚI NGƯỜI THARU

NGÀY 1: dự trù mãi đến khi kết thúc chuyến đi mới post bài vì phải đi vào các làng Tharu hẻo lánh, không có net. Nhưng đi được 400km đến Butwal thì hết xăng nên phải ở lại đây một đêm. May KS có net nên tranh thủ xài ké post vài hình đã chụp bữa nay.

Kế hoạch là khởi hành sớm nhưng hôm nay các đảng chính trị người Madeshi bandha nên mãi tới 8 giờ mới xuất phát được. Kinh nghiệm ở các nước Nam Á là khi có bandha các bạn đừng nên ra đường sớm dù bọn tổ chức nào cũng nói là cho phép xe của phóng viên, khách du lịch nước ngoài, cấp cứu lưu thông. Đừng tin! Sáng nay một chiếc xe của đài truyền hình đi làm tin buổi sáng đã bị tấn công. Vì thế mà dù xe mình có dán "bùa" PRESS phía trước mình vẫn phải chờ vài tiếng đồng hồ cho mấy cái đầu của bọn tiểu yêu nguội bớt.

Chúa nhật này (10/03/2013) là đại lễ hội quan trọng nhất trong năm của Shaivism (một tông của Hindu giáo tôn thờ thần Shiva; tông còn lại là Vaishnavism thờ thần Vishnu). Từ mấy ngày nay, các SADHU (ông đạo Hindu) từ khắp nơi ở Nepal và India lũ lượt kéo về Pashupatinath-ngôi đền thiêng nhất của Hindu ở Kathmandu để tham dự lễ hội này.

13 tháng 1, 2013

NHỮNG BÀI VIẾT CŨ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN HỌ THÍCH-CA

 1-Dòng tộc và quê hương Đức Phật

Lịch sử » Đức Phật
23/03/2008 21:21 (GMT+7)

 http://www.giacngo.vn/lichsu/ducphat/2008/03/23/52C450/


2- LINKS: Các bài về họ Sakya http://nguyenphunepal.blogspot.com/search/label/Sakya

3- LINK: Bảo tháp Ramgram 1: http://nguyenphunepal.blogspot.com/2012/05/ramgram-bao-thap-nguyen-thuy-luu-giu-xa.html
4- LINK: Bảo Tháp Ramgram 2:  http://nguyenphunepal.blogspot.com/2012/06/ramgram-bao-thap-nguyen-thuy-luu-giu-xa.html  
5- LINK: Chudakarma-Lễ Xả nghiệp Xuất gia của họ Thích-ca: http://nguyenphunepal.blogspot.com/2010/09/chuda-karma-le-xa-ngiep-xuat-gia-mot.html

 

LTS: Tìm về quê hương Đức Phật là khát vọng lớn của nhiều nhà nghiên cứu và học giả, xưa cũng như nay. Qua khảo sát bằng thực địa cũng như dựa vào những chứng tích, truyền khẩu của dòng họ Shakya hiện nay đang sống ở Nepal, anh Nguyễn Phú đã cung cấp một huớng đi mới trong việc tìm hiểu về quê hương cũng như dòng họ của Đức Phật. Việc lội ngược dòng lịch sử gần ba ngàn năm để tìm lại giá trị văn hóa cổ xưa mà hiện nay đã mang tính toàn nhân lọai là một việc làm ý nghĩa và rất đáng trân trọng. Nguyệt san Giác Ngộ xin giới thiệu bài viết được gởi về từ thủ phủ Kathmandu, kinh đô của Nepal.
  Nguồn gốc Kapilavastu và vương tộc SHAKYA
Nguồn gốc nguyên thủy của vương tộc Shakya bắt nguồn từ Kosala, một vương tộc thuộc dòng Aryan cai trị vùng đất ở chân dãy Terai. Câu chuyện bắt đầu từ vua Okkaka. Vua Okkaka thuộc dòng dõi mặt trời, tông tộc Ikshanku. Sau khi người vợ đầu tiên chết, nhà vua cưới một người vợ khác. Hoàng hậu trước đó đã sinh cho nhà vua chín người con (4 trai, 5 gái). Khi hoàng hậu thứ hai sinh hạ một hoàng nam, vì muốn giành lấy vương quốc cho Jayantu con của mình đã gây áp lực với nhà vua để ông phải đưa các con của người vợ trước đi xa. Vua Okkaka vì quá si mê hoàng hậu nên đành phải chấp nhận yêu cầu của bà ấy. Các vương tử: Ulkamukha, Karandu, Hastinika, Sinisura, và các công chúa: Priya, Supriya, Ananda, Vijita, Vijitasena được lệnh nhà vua phải rời khỏi vương quốc Kosala vào sống nơi rừng sâu.


Những vương tử và công chúa cành vàng lá ngọc rời khỏi kinh đô Saketa tiến về phía dãy Himalaya. Trải qua bao vất vả, cực nhọc họ đến một vùng đất là nơi ẩn tu của vị ẩn sĩ Kapilamuni. Được ẩn sĩ cưu mang và cho phép, họ đã kiến lập nên một vương quốc và đặt tên là Kapilavastu (hoặc Kapilanagara) để vinh danh ẩn sĩ Kapilamuni.
Thời gian cứ trôi, những hoàng tử và công chúa của xứ Kosala đi đày đã đến tuổi lập gia đình. Bởi tập tục kết hôn với người cùng dòng máu là bình thường thời bấy giờ, tám anh em kết  hôn với nhau và tạo ra tông tộc Shakya (tập tục này ngày nay một số gia đình họ Shakya vẫn còn giữ, tức là chỉ kết hôn với người mang họ Shakya). Vị công chúa lớn tuổi nhất là Priya được bổ nhiệm làm mẫu hậu, còn hoàng tử Ulkamukha được bổ nhiệm là quốc vương đầu tiên của vương quốc non trẻ Kapilavastu.
Một ngày nọ, Okkaka -nhà vua xứ Kosala, nghe kể về cuộc phiêu lưu của những đứa con của mình. Ông quá kích động và kêu lên rằng: “Sakya-Vata-bho-Kumara”(nghĩa là: những đứa trẻ phiêu lưu đã có kết thúc tốt đẹp). Từ câu nói này, về sau, người ta thường dùng tên Sakya (Shakya) để chỉ vương quốc hoặc dòng tộc này, còn Kapilavastu là kinh đô của vương quốc đó.
Theo nghiên cứu của Giáo sư Oldenberg, Kapilavastu - vương quốc của những người Shakya, là một tiểu quốc cộng hòa thuộc phạm vi cai quản của một nhà vua lớn hơn ở Ấn Độ, cụ thể là Kosala. Như ta đã thấy từ quá trình hình thành của nó, Kapilavastu đã bầu chọn người cai trị  một từ trong các thành viên hoàng gia và sự thần phục Kosala là tất nhiên vì đó là vương quốc tổ tiên của họ.
… Ngành kinh tế chính của Kapilavastu là nông nghiệp. Những làng mạc quần tụ quanh những cánh đồng lúa và gia súc thì chăn nuôi ở khu vực cạnh rừng. Nơi đây cũng có những người thợ thủ công: thợ mộc, thợ rèn, thợ gốm,…, tầng cấp Brahmin (Bà la môn). Có một vài cửa hàng nhưng không nghe nói có thương gia và nhà băng. Những đường phố hẹp chật ních voi, ngựa, xe và người. Việc hành chính và tư pháp của vương quốc được giải quyết công khai tại Hội trường công cộng (Mote Hall - Sansthagara). Nhà cửa của kinh thành quay mặt ra đường được trang trí bằng các ban công và các tháp lầu. Hoàng cung được xây dựng kiên cố với các cổng lớn giữa các bức tường và tháp canh cao vút. Toàn bộ kinh thành được bao quanh bởi một cái hào, có chỗ có đến hai hào, một hào bùn, một hào nước. Những cung điện rộng lớn và cầu kỳ bằng gỗ và gạch là nơi diễn ra những sinh hoạt xa hoa của cung đình...
Đó là những mô tả của Giáo sư Rhys Davis về nước cộng hòa Kapilavastu của vương tộc Shakya qua những cứ liệu khảo cổ thu thập được về địa danh này.
                     Vương tộc Koliya - Bên ngoại thái tử Siddhartha
Nguồn gốc của vương tộc Koliya bắt đầu gần như cùng thời điểm và con người với vương tộc Shakya.
Chúng ta đã biết  Priya là mẫu hậu đầu tiên của Kapilavastu. Tuy nhiên, một thời gian sau cô bị nhiễm bệnh hủi. Cô rời bỏ vương quốc và đi đến sống trong một cái hang cọp (vyagghapatha) trong khu rừng dưới chân núi phía Đông Bắc Kapilavastu. Ngẫu nhiên, Rama - vua của vương quốc Banaras (Ba La Nại) cũng bị nhiễm bởi cùng một chứng bệnh ấy và đến sống tại khu rừng gần cái hang mà Priya ở. Một hôm Rama đến ngồi dưới gốc cây Kolan cổ thụ trong khu rừng và kỳ diệu thay chứng bệnh của chàng đã biến mất. Khi gặp Priya trước cái hang cô ở, Rama chỉ cho cô cái cây huyền diệu và cô cũng được khỏi bệnh sau khi ngồi xuống dưới gốc cây ấy. Sau khi khỏi bệnh, hai người kết hôn với nhau, sinh hạ 32 người con và tạo lập nên thành phố Devadaha ở phía Đông biên giới Kapilavastu. Từ đấy đã hình thành nên họ tộc Koliya. Vương quốc này được biết đến với nhiều tên gọi như: Devadaha,  Vyaghrapura, Kolinagara, Ramagrama. Mỗi cái tên gắn liền với một sự tích tạo lập nên vương quốc. Devadaha (Thành phố thần thánh) là để tôn  vinh các vị thần nơi họ tạo lập nên vương quốc mới. Vyaghrapura là tên cái hang cọp mà hoàng hậu Priya đã ở. Kolinagara là để vinh danh cây thần Kolan đã chữa khỏi bệnh cho nhà vua và hoàng hậu. Còn Ramagrama chính là để vinh danh nhà vua Rama - người đã tạo lập nên vương quốc.
Do có cùng nguồn gốc nên vương tộc Shakya ở Kapilavastu và vương tộc Koliya ở Devadaha đã có những mối quan hệ hôn nhân mật thiết. Nhiều đời giữa  hai vương tộc đã thành thông gia. Đến thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, phụ vương Ngài đã cưới cả hai chị em công chúa Mayadevi và Prajapati, còn chính Ngài cũng đã kết hôn với công chúa Yasodhara tuyệt đẹp của vương tộc Koliya. Việc cai trị ở Devadaha cũng theo mô hình của Kapilavastu, nhưng Koliya có đến hai trung tâm quyền lực - một ở Devadaha, một ở Ramagama.
Chúng ta đều biết rằng sau khi Đức Phập nhập Niết bàn tại Kusinaga, xá lợi của Ngài được chia làm tám phần cho tám vị quốc vương. Vương quốc Ramagrama cũng được một phần trong số ấy và đem về lập tháp thờ tại Devadaha.
Huyền thoại kể rằng khi Đại đế Ashoka  xây dựng 84.000 bảo tháp thờ Phật, ông đã cho khai quật các ngôi tháp của các vương quốc được phân chia xá lợi Phật đầu tiên để lấy xá lợi chia lại cho 84.000 bảo tháp mới. Ông đã khai mở hết bảy tháp. Tháp cuối cùng là tháp thờ xá lợi Phật của vương quốc Ramagrama. Khi ông đến tháp ấy có một con rắn khổng lồ nằm cuộn tròn quanh bảo tháp. Đó là Thần Rắn Naga. Sau đó thần rắn biến thành hình người và mời Đại đế Ashoka xuống thăm cung điện của Naga dưới đáy hồ bên cạnh bảo tháp. Sau khi tiếp đãi hoàng đế theo nghi lễ, Naga trình bày cho hoàng đế thấy những vật dụng thần thánh mà Naga dùng hàng ngày để cúng dường xá lợi Phật cầu mong tiêu trừ nghiệp chướng. Rắn thần chấp nhận cho hoàng đế khai mở bảo tháp để lấy xá lợi với điều kiện phải cúng dường hàng ngày tốt hơn Naga đã làm. Ashoka nghĩ rằng không thể làm hơn những gì Naga đã làm nên vui vẻ bỏ qua ý định khai mở bảo tháp lấy xá lợi.
Bộ Đại sử của Sri Lanka (Mahavamsa) lại kể rằng ngôi tháp Ramagrama nằm bên bờ một con sông và đã bị nước xoáy phá hủy. Chiếc bình đựng xá lợi Phật bị cuốn trôi ra biển. Nó được thần Rắn Naga tìm thấy và thờ phụng trong một ngôi bảo tháp. Vào thời vua Dutthagamini (161-137 trước Tây lịch), chiếc bình đựng xá lợi Ramagrama đã được vị Thánh Tăng Sonuttara dùng thần thông thu được và đưa về thờ phụng ở Mahathupo tại Sri Lanka(?).
“Nước Lam Ma bây giờ đã hoang phế không còn dấu vết gì, thành ấp đã đổ nát xiêu vẹo, người dân thưa thớt. Thành xưa ở phía Đông Nam có một bảo tháp lợp ngói cao gần 100m. Ngày xưa, sau khi Đức Như Lai nhập diệt, vua của nước này đến phân chia xá lợi mang về nước của mình rồi ra sức tôn tạo kiến thiết nên. Đây là nơi rất linh thiêng, có ánh sáng phát ra từ tháp. Bên cạnh bảo tháp có một ao nước trong có một con rồng cư trú nơi đó. Mỗi lần con rồng ra đi nó biến thành con rắn. Phía bên phải cũng có một bảo tháp" (Đại  Đường Tây Vực ký - Huyền Trang).
Đó là mô tả của ngài Huyền Trang khi ngài đến chiêm bái vương quốc Ramagrama vào thế kỷ thứ VII sau Tây lịch.  Cả hai ngài Pháp Hiển (thế kỷ thứ V) và Huyền Trang đều thấy được ngôi tháp Ramagrama còn tồn tại.
Năm 1898, Tiến sĩ Hoey căn cứ theo kinh sách đã tìm lại được kinh thành Devadaha. Nó nằm ở chân núi Terai, phía Tây Nepal. Năm 1964, Tiến sĩ S.B Deo xác định được vị trí tháp Ramagrama bên bờ sông Jharai. Nơi đó có một gò đất cao chừng 9m và đường kính chân gò là 21m, với chân móng bằng gạch nung. Các học giả và nhà khảo cổ đã đo đạc và so sánh những khoảng cách đã được nêu trong các tài liệu của các ngài Pháp Hiển và Huyền Trang và công nhận tính chính xác của các nghiên  cứu của Tiến sĩ S.B Deo.
Ngày nay, khách hành hương muốn viếng thăm Ramagrama và quê ngoại của Đức Phật thật dễ dàng. Nếu xuất phát từ Lumbini, chúng ta sẽ đi đến Bhairahawa 25km, từ đây chúng ta đi tiếp 25km nữa đến thành phố Butwan. Đây là một thành phố lớn ở miền Tây Nepal, nằm vắt ngang quốc lộ Mahendra. Tại Butwan chúng ta theo đại lộ Mahendra về hướng Đông (hướng về thủ đô Kathmandu)  chừng 10km, bên tay phải có một con đường rải đá dăm dẫn đến Devadaha kinh đô của Koliya và dòng sông Rohini nổi tiếng. Nếu theo quốc lộ đi quá lên chừng 10km nữa, chúng ta gặp một đường nhựa nhỏ dẫn đến thị trấn Parasi, tháp Ramagrama ở gần ngay đó. Tuy có nhiều huyền thoại quanh nó nhưng người ta vẫn tin rằng 1/8 xá lợi của Đức Phật vẫn còn trong ngôi tháp ấy và vẫn đến cúng dường thật thành kính.
Tại cổng chào của Devdaha (Devadaha), chính quyền địa phương đã cho xây dựng một công viên nhỏ. Trong công viên có tôn tượng của Đức Phật Thích Ca cao chừng 2m, và lùi sau lưng Ngài một chút là tôn tượng của ngài Sariputa (Xá Lợi Phất). Devdaha có một tinh xá thờ ngài Mayadevi và Prajapati. Tuy nhiên dân chúng địa phương theo Hindu giáo đã đồng hóa các vị với nữ thần Barimalika Devi, người được thờ phụng khắp từ Kashmir đến sông Hằng. Họ gọi hai vị là Bairimai và Kanyamai. Trong tinh xá có hai tượng đá của hai vị. Tượng này đã bị hư hỏng khá nhiều. Đến đây tôi mới khẳng định được rằng tinh xá trong cổ thành Kapilavastu  chính là tinh xá thờ  Đức bà Mayadevi mà ngài Huyền Trang đã kể. Nằm cách 1km về phía Nam tinh xá thờ Đức Mayadevi và Pajaprati là kinh đô cổ Devadaha. Nơi đây còn một trụ đá đánh dấu do Đại đế Ashoka đặt vào năm 249 trước Tây lịch, tương tự như trụ đá ở Lumbini. Cũng giống như trụ đá ở Lumbini và Kapilavastu, trụ đá Devadaha cũng đã gãy đổ. Phần gốc nhô lên chừng tám tấc, phần trang trí đầu trụ đã mất, phần thân vỡ nhiều mảnh.Trụ đá này là một trong những chứng cứ  quan trọng để các nhà khảo cổ xác định vị trí kinh đô Devadaha cổ đại. Những dòng chữ do Đại đế cho khắc trên trụ đá nói rằng đây là nơi sinh của Mẹ của Đức Phật. Tôi được cho xem bản dịch tiếng Anh của những dòng chữ ấy, sơ lược như sau: Đức vua Piyadasi (Ashoka), người được chư thần yêu quý, vào năm thứ 20 trong triều đại của ngài đã đến thăm viếng Devadaha và bày tỏ lòng kính trọng. Bởi vì đây là nơi sinh của mẹ Đức Phật nên Hoàng đế giảm thuế cho làng Devadaha xuống chỉ còn 1/8.
Từ cổng chào của Devdaha về hướng Nam chừng vài km, giữa cánh đồng có một cây đại thụ hùng vĩ. Từ xa đã thấy sắc xanh đặc biệt của lá cây. Cây cao chừng 30m, tỏa bóng mát che rợp chu vi  đường kính 40m. Cành xõa ra từ sát mặt đất. Không ai dám chặt một cành nào của cây ấy vì đây chính là cây thần Kolan và tôn kính gọi đó là "Kotiyamai”. Từ xa xưa, kên kên, đại bàng và voi cũng không dám đến gần cây thần này. Vua Rama và hoàng hậu Priya đã được chữa khỏi bệnh dưới một cây Kolan và tên cây đã thành tên vương quốc của họ. Không ai dám chắc rằng cây Kolan ngày nay có phải là cây Kolan trong huyền thoại hay không nhưng tận đáy lòng tôi tin trong những chiếc lá xanh kia có chứa tứ đại của cây thần Kolan huyền thoại. 
Rời cây thần Kolan, chúng tôi đến chiêm bái tháp Ramagrama. Chúng tôi thắp hương rồi nhiễu quanh tháp chín vòng và niệm danh hiệu Đức Thế Tôn. Tuy chỉ là một gò đất nhưng nơi này là một trong những nơi thiêng liêng nhất của Nepal vì chứa đựng 1/8 xá lợi Phật. Chính các nhà khảo cổ  hiện nay cũng không dám khai mở tháp Ramagrama. Hồ Naga cạnh tháp đã cạn khô có lẽ Thần rắn Naga đã tái sinh kiếp khác hay do công đức cúng dường xá lợi nên đã về cõi vô ưu.
Câu chuyện về dòng họ Shakya của Đức Phật chưa dừng ở thời điểm Vidudhaba hủy diệt kinh thành Kapilavastu và tàn sát tất cả người mang họ Shakya. Một số vương tử đã trốn thoát; một số chạy về Piprava dựng nên kinh đô Kapilavastu mới. Một số đi đến các vương quốc vùng Himalaya và làm vua ở đó. Trong số này, có một nhóm đã dựng nên một thành phố mới gọi là Moriyanagara, nơi họ đã nghe tiếng gáy vang của những con công. Đó là bắt đầu cho một dòng họ mới khai sáng ra triều đại Moriya huy hoàng mà người thứ ba của triều đại trở thành vị  Chuyển luân vương vĩ đại nhất trong lịch sử Ấn Độ: Đại đế Ashoka.
Được biết xa lộ cao tốc Xuyên Á (điểm cuối là TP.HCM - Việt Nam) có một đoạn đi ngang qua Nepal. Đoạn ấy nối vào Quốc lộ Mahendra và ngang qua Butwan. Hy vọng rồi đây khi xa lộ hoàn thành, người Việt Nam có thể đi bằng đường bộ vượt 3.000km đến thăm quê hương Đức Phật để cúng dường những di tích thiêng liêng và xá lợi của Đức Từ Phụ.


(Bài viết có tham khảo tư liệu của  Giáo sư Babu Krishna Rijal - Cục Khảo cổ Vương quốc Nepal, sách của các học giả Hermann Oldenberg,  H.W. Schumann, Từ điển Pali Proper Name, Hồi ký của các ngài Pháp Hiển - Huyền Trang và gia phả của họ Shakya tại Kathmandu).
NGUYỄN PHÚ

 

CHUYÊN ĐỀ LỊCH SỬ NEPAL: HỌ THÍCH-CA Ở KATHMANDU

Quý bạn đọc thân mến,
Cách đây hơn mười năm một "tiếng gọi" (the call) từ Himalaya đã vọng đến tác giả vào một buổi sáng tháng Giêng trong hình thức một làn hơi lạnh giá. Sau đó tác giả đã quyết định lên đường một cách trừu tượng mà không hề biết mình sẽ bắt đầu từ đâu và đi đến đâu. Để chuẩn bị cho chuyến đi này, tác giả đã soạn ra cả một danh sách dài những việc cần làm trong đó có cả việc học những kỹ năng viết lách, quay phim, chụp ảnh... và đã tiêu tốn bốn năm trời dành dụm tiền bạc và học hỏi mọi thứ (kể cả làm phóng viên cho một đài truyền hình để học kỹ năng, nghiệp vụ). Cuối năm 2005, tác giả đặt chân đến Nepal (Kathmandu và Lumbini) một cách bất ngờ không hề có sự chuẩn bị trước trong một chuyến đi độc hành nửa hành hương nửa để cầu siêu cho người mẹ vừa quá cố của mình. Tại đây tác giả đã nhận chân ra "tiếng gọi" vang vọng đến mình 5 năm trước, và chọn xứ sở này làm quê hương thứ hai. "Tiếng gọi" ấy đã tặng cho tác giả một chủ đề nghiên cứu cả đời (life time's subject): The Sakya (Họ Thích-ca).
  Sau 7 năm nghiên cứu, tác giả xin đưa lên đây những thu thập ít ỏi bước đầu của mình về một chủ đề có quá ít người tìm hiểu. Mong các bài viết này nhận được sự quan tâm của các bạn!
  Trân trọng,
  Nguyễn Phú

******************************************************
HỌ SHAKYA Ở KATHMANDU: PHẦN 1

Họ Thích-ca thuộc 18 bahal (tự viện) khắp Kathmandu tập trung cầu nguyện hàng tháng

Kathmandu Valley (Thung Lũng Kathmandu), thủ đô hiện tại của nước Nepal, vốn là một vương quốc nhỏ trong vùng Himalaya với tên gọi từ thời cổ đại (hơn 500 năm trước Công Nguyên) là Nepal-Mandala. Tên Nepal-Mandala bắt nguồn từ vị trí địa lý của thung lũng này với những dãy núi bao quanh giống như những cánh hoa sen trong một đồ hình mandala.
  Rất nhiều người biết đến chi tiết Kathmandu Valley là một mandala, nhưng không mấy người biết đấy là mandala gì... vì Mật tông Hindu và Mật tông Phật giáo có đến hàng vạn mandala. Câu chuyện về Mandala của Kathmandu xin bàn vào một dịp khác.
  Kathmandu Valley chính là nơi cư trú được chính thức ghi nhận của hậu duệ cộng đồng Sakya-Tộc họ đã sản sinh ra một trong những nhân vật nổi tiếng nhất lịch sử thế giới: Sakya Buddha (Đức Phật Thích-ca).
Sakya là viết theo tiếng Sanskrit hoặc Pali; Shakya là theo tiếng Newari-ngôn ngữ cổ đại của người bản địa Kathmandu Valley, cũng từ này phiên âm theo tiếng Hán là Thích-ca. Kể từ đây tác giả xin được phép dùng từ Sakya hoặc Shakya để dễ dàng cho bạn đọc khi tra cứu hay tìm kiếm về tộc họ này tại Kathmandu Valley hay từ các nguồn khác với nguồn Hán-Việt (điều này phát xuất từ kinh nghiệm thực tế của tác giả vì ngoài người Việt ra, chẳng một ai biết đến họ Thích-ca! Cũng như dùng các danh từ riêng theo tiếng nước ngoài không phải vì tác giả sính dùng ngoại ngữ).

  Nguồn gốc của tộc họ Shakya tại Kathmandu có thể truy nguyên về đến tận thời Sakya Buddha còn tại thế. Khi ấy vua Vidudabha của vương quốc láng giềng hùng mạnh Kosala đã tận diệt họ Sakya tại Kapilavastu (thành Ca-tỳ-la-vệ). Tộc họ Sakya mất nước đã phải lưu vong, tản mác khắp bốn phương trời. Một nhóm Sakya đã theo những con đường mòn của giới thương buôn vượt qua dãy núi Terai tìm đến Kathmandu Valley. Tại đây, một hoàng tử Sakya đã kết hôn với công chúa của vua địa phương tộc họ Kirat (tộc họ này thuộc sắc dân Naga sống trải dài từ Himalaya đến tận Việt Nam; người Việt là một nhánh của Naga di cư từ Himalaya- xin viết về chủ đề này trong một bài khác). Cộng đồng Sakya của Kathmandu Valley bắt đầu định cư và định hình, cũng như có ảnh hưởng quan trọng đến lịch sử Kathmandu suốt 2.500 năm nay.
  Cộng đồng Sakya lâu đời nhất thuộc về Chabahil. Theo ngôn ngữ Newari, bahil hay bahal tương đương với vihara của Sanskrit. Tuy nhiên, bahil hay bahal không phải một ngôi chùa hay tu viện (pagoda, monastery) dành cho giới tăng-ni như Phật giáo Bắc tông hoặc Nam tông. Nó là một kiến trúc khép kín với 4 dãy nhà xoay mặt vào một cái sân, trung tâm là một stupa (bảo tháp). 
Mô hình một Bahil
Bahal thì có quy mô lớn với các dãy nhà của tộc họ Shakya bao quanh ba cánh và một cánh dành cho ngôi chùa của họ. Bahil thì quy mô nhỏ hơn, hầu như gói gọn vào một ngôi chùa. Đúng nghĩa, bahil hay bahal là một ngôi nhà sinh hoạt chung của họ Shakya. Họ tụ tập tại đây để cầu nguyện, cúng dường, làm Phật sự hay chỉ đơn giản là sinh hoạt cộng đồng. Bahil và Bahal cũng có tăng ni cư trú để tu tập nhưng họ Sakya không có khái niệm "sư-ni trụ trì". Cho đến ngày nay (thế kỷ 21) họ Shakya vẫn duy trì truyền thống dân chủ cộng hòa của vương quốc Sakya xa xưa ở Kapilavastu. Mỗi cộng đồng có một vị thủ lĩnh (thường là vị cao niên nhất hoặc có uy tín nhất) gọi là Thakali. Thakali sẽ chủ trì các buổi cầu nguyện, cũng như các buổi họp cộng đồng trong đó quyết định sẽ cuối cùng tuân theo nguyên tắc đa số. 
Aarta Man Shakya-Thakali hiện tại của toàn bộ Shakya ở Kathmandu Valley

  Theo lịch sử Kathmandu, có 18 bahal thuộc họ Shakya được xem là chánh tông. Vấn đề chánh tông này xuất phát từ hơn 1000 năm trước, khi các vua trị vì Kathmandu Valley lập ra hệ thống Jati (caste theo tiếng Anh). Thực ra nếu dịch Jati /caste thành từ "đẳng cấp" hoặc "giai cấp" trong tiếng Việt thì chưa chính xác. Jati là hệ thống phân biệt nghề nghiệp; những nghề nào xã hội cần hơn, hàm chứa nhiều chất xám hơn thì được đánh giá cao hơn những nghề làm lụng tay chân hay nghề làm những việc thấp hèn. Trong hệ thống ấy, một số người theo Phật giáo của Kathmandu Valley được xếp vào họ Shakya-nghĩa là người theo đạo Shakya Buddha (giống như pháp danh với họ Thích của Phật giáo Bắc tông). Sự kiện này cùng với việc các bahil và bahal được xây dựng ngày một nhiều (trong đó có một số bahil, bahal không thuộc họ Shakya) đã dẫn đến việc họ Shakya thống nhất nhìn nhận trong toàn Kathmandu Valley chỉ có 18 bahal-bahil chánh tông. Và người của 18 bahl-bahil này mới thuộc họ Sakya chánh gốc.

23 tháng 10, 2012

DASHAIN- TẾT NEPAL: NGÀY THỨ 9 MAHA NAVAMI - DIỆN KIẾN LIVING GODDESS KUMARI

Kumari trong một lần ra ngoài dự lễ
  Kumari là Nữ thánh Sống duy nhất không chỉ của Nepal mà toàn thế giới. Chiêm bái Nữ thánh sống Taleju vào ngày Navami, đỉnh của các nghi thức chiêm bái thần linh, đấy mới chính là dân Kathmandu sành điệu!    
   Bước vào bên trong Kumari Ghar, tôi hồi hộp di từng bước chân. Đây là nơi mà các nhà vua trước đây và cả Tổng thống hiện nay cũng phải đến hàng năm vào dịp lễ hội Indra Jatra để nhận tika ban phúc của Kumari như là một sự chuẩn thuận từ Nữ thần hộ quốc cho sự cai trị của họ trong một năm.
 Tôi có lẽ là người ngoại quốc đầu tiên vào được căn phòng Kumari ngự và đảnh lễ Nữ Thánh Sống.
Phải mất bảy năm tôi mới thực hiện thành công kế hoạch diện kiến Kumari Kathmandu. Cái giá không phải là quá đắt! 



Hôm này là ngày thứ chín của Lễ Hội Dashain, gọi là Maha Navami – nghĩa là Ngày Thứ Chín Vĩ Đại. Các nghi lễ cúng bái Nữ thần lên đến đỉnh điểm trong ngày này.




  Từ sáng sớm hàng đoàn tín đồ Hindu đã kéo đến cúng bái tại các đền thờ của các nữ thần Dakshinkali, Guheshwari, Maitidevi, Kalikasthan, Naxal Bhagawati, Bhadrakali, Shobha Bhagawati, Bijyeshwori, Indrayani, Naradevi, Bajrabarahi, Raktakali, Bajrayogini and Sankata .Theo phong tục, các tín đồ dâng cúng lễ vật và tụng đọc kinh Durga Saptari.
Xếp hàng cả cây số để vào chiêm bái đền Taleju
Ngày này quan trọng vì Nữ thần Chamunda đã giết chết được quỷ vương Raktabji(một biến thể của huyền thoại Durga và chính Chamunda cũng là một hóa thân của Durga).
Việc hiến tế súc vật tiếp tục diễn ra trong ngày này, đặc biệt là tại các Dashain-ghar và Kot (doanh trại quân đội) và các đền miếu thờ Durga và các hóa thân của bà như Kali, Taleju. Thú vật được hiến tế lên Nữ thần Durga ngày hôm nay để mong sự bảo hộ của Nữ Thần cho xe cộ và người sử dụng chúng.Gà, vịt, dê, cừu, trâu bị chặt đầu khắp nơi để hiến tế. Người không sát sanh thì hiến tế bằng cách đập vỡ một trái dừa (tượng trưng cho đầu Quỷ Vương) , một quả trứng hay một bầu nước.
Cũng vào ngày Navami, Vishworkarma, Thần Sáng Tạo – thần của thợ thủ công và xây dựng, được các thợ thủ công, thợ máy, doanh nhân cúng bái thông qua các công cụ lao động, máy móc, vũ khí, xe cộ.
Đặc biệt trong ngày này ngôi đền Taleju Bhawami nổi tiếng trong quần thể cố cung Hanuman Dhoka của các vua Malla được mở cửa một ngày duy nhất trong năm để dân chúng vào chiêm bái Nữ thần Taleju. Đây là ngôi đền dành riêng cho vua và hoàng tộc (cả Malla và Shah-Gorkha) cúng tế Taleju, hóa thân của Durga và là thần hộ quốc của Nepal. Vị nữ thần Taleju này gắn liền với Mật Tông đặc biệt của các vua Malla và Kumari-Nữ thánh sống nổi tiếng chính là hiện thân của Nữ thần Taleju (xin có bài viết riêng về Mật Tông Malla, Nữ thánh sống Kumari và ngôi đền Taleju sau).
Dân chúng kéo vào đền Taleju để chiêm bái

Đã có kinh nghiệm nhiều năm trước và có mục tiêu đặc biệt trong năm nay nên tôi chọn buổi xế chiều để đến quần thể cố cung Malla.
 Có một quy định rất khắc khe là cấm người ngoại quốc vào bên trong các ngôi đền thiêng Hindu; chủ yếu là Tây phương mắt xanh mũi lỏ, nhưng để khỏi bị khiếu nại nên cấm luôn ngoại quốc da vàng mũi tẹt.
 Ngay từ năm đầu tiên sống ở Nepal tôi đã tìm ra cách lách qua cái quy định buồn cười này. Rất nhiều lần tôi đứng trước cổng đền và bị chặn lại, phải ấm ức quay về. Cho đến khi một anh chàng họa sĩ Nepal đùa vui tếu táo: “You look like Nepali 100% - Mày giống hệt một thằng Nepali.” Tôi nảy ra ý tưởng và áp dụng thành công cho đến bây giờ.
Bảo vệ canh gác cẩn mật cổng vào đền Taleju

  Tại sao tôi bị chặn lại? Phải chăng vì cái dáng bộ lơ ngơ, nghiêng nghiêng, ngó ngó, tay lăm lăm cái máy ảnh thấy gì cũng chụp? Cái dáng bộ ấy cách xa hàng cây số đã ngửi ra là một thằng ngoại quốc, hay khách du lịch. Chỉ cần là ngoại quốc là đủ.Có ai hỏi quốc tịch đâu?  
   Thế là tôi đóng vai một anh chàng câm (vì đâu có biết nói tiếng Nepali hay Hindi) tay bưng đĩa lễ vật ready-made mới mua của người bán rong, mắt nhìn thẳng không láo liên xung quanh,cứ đàng hoàng đi qua trạm gác và mấy anh chàng bảo vệ hách xì xằng vào thẳng trong các đền cấm. Bằng chiêu người-câm này tôi đã lọt vào tất cả các đền thiêng ở Kathmandu, kể cả Pashupatinath là ngôi đền canh giữ cẩn mật nhất bằng cả một đại đội cảnh sát dã chiến.
   Tôi đã vào cúng bái đền Taleju hầu như mỗi năm khi ngôi đền này mở cửa cho công chúng lần duy nhất trong năm vào ngày Navami, (năm nay tôi có mục tiêu khác nên đến đây vào buổi chiều). Thời điểm tốt nhất là sáng tinh mơ, chừng 5 giờ, giờ chỉ có tín đồ ngoan đạo mới đi trong sương lạnh vào cúng sớm. Giờ này thì mấy anh chàng trật tự mới khởi động nên cũng không gay gắt lắm, cái gì cũng cho qua. Vả lại họ sẽ không đề phòng khách du lịch hay người nước ngoài chịu khó dậy sớm chen lẫn vào đền. Tôi cứ câm nín lẳng lặng đến xếp hàng vào đoàn người rồng rắn di chuyển từng bước một theo cạnh tường ngôi đền để lọt qua cổng đền. Sau đó leo từng bậc thang đá lên ba tầng cấu trúc như Kim tự tháp Nam Mỹ. Cuối cùng đến được ngôi đền hoàn mỹ trên đỉnh. Cũng chỉ có một cửa phía Bắc mở ra cho dân chúng, ba phía còn lại vẫn đóng kín. Mỗi người chỉ có chưa đến 1 phút để liếc qua cái khám thờ nhỏ ngăn riêng ra cho dân chúng ở giữa là cái bệ thờ phủ vải đỏ trên đó đặt một mặt nạ cổ bằng đồng chân dung của Taleju, cùng với bình nước thánh. Tín đồ đứng ngoài bệ cửa dâng lễ vật qua tay mấy ông Brahmin và hướng về bàn thờ khấn vái, rồi phải dời đi ngay lấy chỗ cho người kế tiếp.
  Sau khi cúng bái Taleju, mọi người lại phải xếp hàng đi qua cửa hông thông với cố cung, xuyên qua các hành lanh của các cung để ra ngoài thông qua cổng chính của hoàng cung là Hanuman Dhoka (Cổng Thần Khỉ).
  Lối ra này có đi xuyên qua một cung gọi là Mul Chok. Đấy một cung điện kiến trúc theo lối Newar (văn hóa của cư dân gốc Newari của Thung Lũng Kathmandu) với bốn dãy nhà bao quanh một cái sân hình vuông 12x12m lát đá. Đấy là nơi hiến tế Taleju vào nửa đêm giữa Ashtami và Navami. 54 con trâu và 54 con dê đã bị chặt đầu tại đây vào đêm này hàng năm. Đầu và thân của chúng đã được mang đi trước khi tín đồ đầu tiên vào cổng đền Taleju. Bột mùn cưa thấm đẫm máu của chúng tạo thành một thứ bùn đặc nâu sẫm trên khoảnh sân lát đá. Máu bắn cả lên các bức tường. Tôi bước chậm lại, miệng lầm rầm niệm chú đại bi cầu nguyện cho vong hồn của chúng sớm được siêu sinh.
   Cái cung điện Mul Chow này cũng chính là nơi diễn ra nghi lễ bí mật cuối cùng để lựa chọn một Kumari mới. Cô bé gái bị đặt ngồi một mình trong căn phòng tối nhìn ra khoảnh sân ngập máu giữa hàng trăm chiếc đầu mắt mở trừng trừng của đàn súc vật vừa bị hiến tế. Nếu cô không sợ hãi, bình thản ngồi trong im lặng chết chóc đó cho đến khi các thầy tư tế hoàng gia hoàn thành buổi cầu nguyện bên đền Taleju quay trở lại, cô đã vượt qua cái test cuối cùng để trở thành Kumari, hiện thân sống của Taleju-Durga, Nữ thánh sống bảo hộ cho Thung lũng Kathmandu.
   Thế nên, với dân Kathmandu chính gốc, đến chiêm bái Nữ thánh Taleju sống, Kumari, mới chính là tột đỉnh của các nghi thức cầu nguyện nữ thần trong ngày Navami cũng như như suốt mùa Dashain.
   Kumari Ghar thì nằm ngay quảng trường hoàng cung, cách đền Taleju khoảng hơn trăm mét. Đây là một kiến trúc cổ Newari nửa chùa nửa nhà ba tầng. Rất nổi tiếng đối với du khách ngoại quốc như là Cung điện của Kumari. Hàng ngày, lối 4 giờ du khách ngoại quốc chen chúc trong cái sân bên dưới ngóng cổ nhìn lên khung cửa sổ 3 phần liên hoàn để thấy Kumari ló mặt ra nhìn xuống trong vài giây rồi biến mất. Nghiêm cấm chụp hình, và quy định này được giữ rất ngặt nghèo bởi mấy anh chàng bảo vệ Kumari Ghar đứng lẫn với du khách. Thoáng thấy cái bóng đỏ của Kumari rồi thì đám du khách đành phải tiu nghỉu ra về.
Xếp hàng vào bên trong chiêm bái Kumari -Cái biển đỏ viết "NO ENTRANCE FOR FOREIGNERS", anh chàng bảo vệ chỉ cho mỗi lượt 5 người vào sau khi có 5 người ra

   Tôi đến Kumari Ghar cũng tầm 4 giờ chiều. Cũng lẳng lặng xếp vào hàng dăm chục người rồng rắn đi vào bên trong. Phía bên tường của hoàng cung đoàn người xếp hàng vào đền Taleju kéo dài cả cây số cho đến tận ngoài đường New Road. Tôi ung dung lần bước trong đoàn người địa phương men theo hành lang để vào cái cửa nhỏ thấp, trong khi bên dưới sân thì đám du khách như mọi hôm chen chúc nhau vô vọng ngóng lên cái cửa sổ nổi tiếng nhất Nepal mà không biết rằng hôm nay Kumari bận ban phúc cho mọi người nên không đến bên cửa sổ. Còn cách ba mét tới cái cửa vào thì tôi suýt bị lộ. Lần đầu tiên từ khi sử dụng mánh người câm này. Một người đàn ông to lớn bệ vệ từ trong Kumari Ghar lách người bước qua cửa để ra sân sau khi chiêm bái Kumari. Ông xoay người, nhận ra tôi và kêu lớn mừng rỡ : “Oh, Mr. Phu.” Giọng nói vang vọng của ông làm ai cũng quay lại nhìn. Tôi tỉnh như không giả vờ quay nhìn mấy người phía sau mình rồi quay lại đặt một ngón tay lên môi ra vẻ như bảo ông giữ im lặng (thực ra là ra hiệu cho ông giữ bí mật). Ông ớ người và chợt hiểu, lắc lắc đầu giả vờ như nhìn nhầm người rồi quay người băng qua sân đến cánh bên kia tòa nhà nhìn sang.  Ông cười vui vẻ và vẫy vẫy tay chào trước khi rời đi cùng gia đình. Đó là ông Rajesh Kazi Shrestha người Newar chính gốc, cựu Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp Nepal. Ông hiểu ngay là tôi phải giữ bí mật mà lén vào chiêm bái Kumari. Có vẻ ông rất vui vì tôi đã thực hành nghi thức chiêm bái Kumari vào ngày này (tôi có điện cho ông sau khi rời Kumari Ghar, ông còn ngạc nhiên sao tôi lại biết được bí mật này của dân Kathmandu). Kumari là Nữ thánh Sống duy nhất không chỉ của Nepal mà toàn thế giới. Chiêm bái Nữ thánh sống Taleju vào ngày Navami, đỉnh của các nghi thức chiêm bái thần linh, đấy mới chính là dân Kathmandu sành điệu!    
   Bước vào bên trong Kumari Ghar, tôi hồi hộp di từng bước chân. Đây là nơi mà các nhà vua trước đây và cả Tổng thống hiện nay cũng phải đến hàng năm vào dịp lễ hội Indra Jatra để nhận tika ban phúc của Kumari như là một sự chuẩn thuận từ Nữ thần hộ quốc cho sự cai trị của họ trong một năm.
  
Leo lên hết hai cầu thang bằng gỗ khá dốc để đến tầng thứ ba, tôi thấy Kumari ngồi trên mấy cái gối đỏ dầy giữa căn-phòng-có-ba-khung-cửa-sổ-liên-hoàn. Kumari hiện tại tên là Matina Shakya thuộc họ Thích ca, mới 8 tuổi, lên ngôi từ mùa Dashain 2008. Kumari mặc toàn đỏ, ngồi duỗi dài hai chân ra phía trước, hai bàn chân cũng nhuộm phẩm màu đỏ rực. Cổ cô đeo một dây chuyền bạc to như dây xích với hai tayo (mặt dây chuyền hình thoi- thánh vật Tantric) và một trang sức hình con rắn khảm ngọc đỏ. Kumari mở to đôi mắt vốn rất to kẻ viền đen, đuôi mắt vẽ kéo dài xếch lên màng tang. Trán cô vẽ một vầng đỏ viền vàng hình trăng lưỡi liềm úp ngược. Chính giữa trán gắn một con mắt thứ ba bằng vàng. Tóc cô bới cao, cột túm lên trên với hoa màu đỏ. Lần lượt từng người quỳ xuống trước mặt Kumari cầu khấn rồi vinh dự chạm trán vào hai bàn chân để trần của Nữ thánh Sống. 
Căn phòng với ba cửa sổ liên hoàn này là nơi Kumari ngự để ban phúc cho mọi người

  Được chiêm bái Kumari-Living Goddess, một Royal Kumari của Kathmandu.  
  Thế là mơ ước của tôi đã thành sự thực. Tôi đã được chiêm bái tất cả các Kumari quan trọng của Thung lũng Kathmandu. Từ Cha Bahil, nơi khởi nguồn cho tập tục Kumari cho đến Kumari Patan – cựu Royal Kumari cho đến khi hoàng cung Malla dời sang Kathmandu. Kể cả Bhaktapur, nơi tập tục thờ phượng Kumari bắt đầu trễ nhất (800 năm trước). Trong số các Kumari quan trọng của Cha Bahil, Patan, Bhaktapur, Kathmandu thì diện kiến Kumari của Kathmandu là khó nhất. Đây là Royal Kumari của Nepal hiện nay, người nắm giữ bí mật Tantric của Nepal, sống trong Kumari Ghar dưới sự bảo vệ nghiêm ngặt của Chính Phủ .Tôi có lẽ là người ngoại quốc đầu tiên vào được căn phòng Kumari ngự và đảnh lễ Nữ Thánh Sống.
  Phải mất bảy năm tôi mới thực hiện thành công kế hoạch diện kiến Kumari Kathmandu. Cái giá không phải là quá đắt!     

Hắn dứng bên dưới căn phòng của Kumari - giống hệt một gã Kathmanduist

    Ngày mai sẽ có một cuộc phiêu lưu thú vị khác: nhận tika từ Tổng thống Nepal, xin mời đón xem!



6 tháng 5, 2012

RAMGRAM – BẢO THÁP NGUYÊN THUỶ LƯU GIỮ XÁ-LỢI PHẬT THÍCH-CA

-->
PHẦN 1                    
(Bài này được đăng trên Nguyệt San Giác Ngộ số đặc biệt mừng Phật Đản năm 2012)
GÒ ĐẤT BÊN HỒ NÀY LÀ DI TÍCH CÒN LẠI CỦA BẢO THÁP RAMAGRAMA NỔI TIẾNG HƠN 2500 TRƯỚC
Đã thành thông lệ, mỗi lần về thăm quê hương Đức Phật tôi đều phải ít nhất một lần ghé qua Ramgram. Đấy là nơi lưu giữ Xá Lợi nguyên thủy (Sàrìradhàtu) của Đức Phật Thích-ca và hầu như chưa hề bị xâm phạm cho đến ngày nay. Điều đó cũng có nghĩa là: đấy là nơi lưu giữ số lượng nhiều nhất Xá Lợi Phật Thích-ca trên thế giới cho đến ngày nay.
Ramgram, gọi đầy đủ phải là Ramagrama, là một địa danh quan trọng và nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo cũng như lịch sử họ Sakya (Thích-ca).







Lời dẫn của tác giả: Tôi lên đường đến Lumbini để làm công quả và công tác thiện nguyện một cách bất ngờ từ nhiều năm trước. Vùng đất Phật đã làm tôi yêu mến và gắn bó như  quê hương  của mình. Mà cũng đúng thôi, vì mọi Phật tử đều tự xem mình là con Phật và như thế quê hương của Đức Phật Thích-ca cũng chính là quê hương của chúng ta. Sáu năm trước tôi có viết một bài về Quê Phật (bài “Dòng tộc và quê hương Đức Phật” đã đăng trên Nguyệt San Giác Ngộ năm 2006). Thời điểm ấy, Vương quốc Nepal đang ở vào giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc nội chiến kéo dài hơn 10 năm với tổn thất sinh mạng lên đến hàng vạn người. Lumbini Zone là vùng giáp biên giới với Ấn Độ, du kích Maoist hoạt động mạnh mẽ và nghiêm cấm di chuyển trong vùng họ quản lý– nếu gặp phải quân du kích thì chỉ còn cách quay xe về không được đi tiếp. Quân đội của chính phủ hoàng gia cũng kiểm soát gắt gao sự di chuyển trong vùng, cứ cách vài cây số là có một trạm kiểm soát phong toả đường đi bằng chướng ngại vật kiên cố , mọi người - trừ lái xe - phải xuống xe kiểm tra người và hành lý. Chính vì thế, những cuộc khảo sát của tôi lúc bấy giờ chỉ mang tính cưỡi ngựa xem hoa (đi theo đoàn, nhiều địa điểm không tiếp cận được chỉ đứng nhìn từ xa, và không được phép chụp hình). Tôi rất tiếc cho bài viết không hoàn hảo ấy và luôn cầu nguyện Chư Phật và Bồ Tát gia hộ để tôi có thể bổ sung cho bài viết ấy hoàn hảo hơn. Cuối cùng, chiến tranh cũng chấm dứt vào năm 2007, Nepal xoá bỏ vương quyền để trở thành một nước cộng hòa. Thế nhưng mãi đến bốn năm sau đó tôi mới có thể thực hiện được nguyện ước của mình: “Về Quê”. Trong những năm đó, cơ duyên đã giúp tôi tiếp cận thêm nhiều nguồn tư liệu phong phú tại Kathmandu về cổ sử Nepal và Ấn độ. Loạt bài phóng sự “Về quê” này nhân dịp Phật Đản sẽ khắc hoạ chi tiết quê hương của Đức Phật Thích-ca (nhất là quê mẹ của Ngài tại Devdaha vốn chưa được biết đến nhiều như quê cha - Kapilavastu) bằng tư liệu thực địa của chính tác giả và nguồn sử liệu chưa được biết đến rộng rãi từ Nepal ; cũng như có tham khảo Phật quốc ký của Pháp Hiển, Tây du ký của Huyền Trang, tư liệu khảo cổ của các học giả Cambridge và Báo cáo khai quật Ramgram năm 2005 của Sukra Sagar Shrestha – Trưởng Ban khảo cổ thuộc Cục Khảo cổ Nepal. Vì các bài viết này là những phóng sự không phải bài khảo cứu về khảo cổ, tác giả xin cáo lỗi vì không thể chuyển tải chi tiết những thuật ngữ chuyên ngành của khoa học khảo cổ.
Mong rằng những thu nhặt nhỏ nhoi này sẽ giúp độc giả cảm thấy gần gũi hơn với Đức Từ phụ của chúng ta.    
******


I – NGUỒN GỐC RAMAGRAMA
Đã thành thông lệ, mỗi lần về thăm quê hương Đức Phật tôi đều phải ít nhất một lần ghé qua Ramgram. Đấy là nơi lưu giữ Xá Lợi nguyên thủy (Sàrìradhàtu) của Đức Phật Thích-ca và hầu như chưa hề bị xâm phạm cho đến ngày nay. Điều đó cũng có nghĩa là: đấy là nơi lưu giữ số lượng nhiều nhất Xá Lợi Phật Thích-ca trên thế giới cho đến ngày nay.
Ramgram, gọi đầy đủ phải là Ramagrama, là một địa danh quan trọng và nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo cũng như lịch sử họ Sakya (Thích-ca). Xin được nhắc lại một chút lịch sử của vương quốc này gắn liền với lịch sử gia tộc Sakya.
  Toàn bộ Tư liệu Phật giáo từ Lalitvistara viết tay ở Thung Lũng Kathmandu hoặc Đại sử Mahavamsa ở Sri Lanka, hoặc Phật Sử tiếng Tây tạng, bao gồm cả Dhammapada (Kinh Pháp Cú), Jatakas (Chuyện Tiền Thân Phật), Putakas và Tripitakas  đều kể cùng một câu chuyện với tên các nhân vật phát âm hơi khác do giọng địa phương:

     …Vua Okkaka của Kosala mất vợ Hasta, ngưới có cùng với ông 4 con trai 5 con gái. Nhà vua tấn phong một vương phi xinh đẹp, trẻ tuổi tên Amba lên làm hoàng hậu. Bà này sinh cho ông một đứa con trai tên Jayantu. Nhà vua già vì quá yêu bà vợ trẻ và đứa con trai mới đã không từ chối được yêu cầu cùa bà này tấn phong cho Jayantu làm người kế vị ngai vàng.
    Sau phút bốc đồng, lòng tràn đầy hối hận, Okaka gọi các con của bà vợ trước đến và bảo:
  “Này các con, ta đã cho đi một cách thiếu suy nghĩ vương quốc thực sự thuộc về các con. Em trai Jayantu của các con sẽ kế vị ta. Hãy lấy bất cứ của cải nào, ngoại trừ 5 món biểu tượng cho vương quyền [kiếm báu, giày báu, lọng hoàng gia, vương miện, phất trần của vua – chú thích của NP]và mang theo số người các con cần. Hãy đi đến một nơi nào đó nơi các con có thể dựng nên chốn nương thân.”
    Okkaka khóc, hôn các con và tiễn chúng ra đi với một trái tim tan nát.
    Những hoàng tử và công chúa trẻ đi về phía Bắc hướng có những dãy núi tuyết hùng vĩ của Himalaya. Sau một chặng đường dài, họ đến một khu rừng Sal [sa-la theo phiên âm Hán Việt] nơi  Rishi (ẨN SĨ) Kapila đang thiền toạ bên bờ một con sông. Rishi Kapila chính là một tiền kiếp của Phật Thích-ca trong tương lai.
    Hiểu rõ tình cảnh của họ và tiên đoán được tương lai của chúng, Rishi Kapila bảo họ dừng lại đấy và xây dựng quốc gia của riêng họ. Thành đô đấy chính là Kapilavastu [Ca-Tì-La-Vệ] sau này, được đặt tên theo vị ẩn sĩ Kapila để vinh danh ông.
   Vì là dòng dõi Okkaka, các hoàng tử và công chúa của Kosala không thể kết hôn với hoàng gia các nước thấp kém hơn chung quanh, họ phải kết hôn với anh chị em ruột của mình [đây là tập tục của Ấn Độ cổ đại] để bảo toàn dòng máu tinh khiết của gia tộc. Người chị cả được tấn phong làm Mẫu hậu, còn lại 4 anh em trai cưới chính 4 cô em gái. Mỗi cặp hạ sinh 8 con trai và 8 con gái. Đấy là khởi đầu cho vương tộc Sakya [ tên này cũng có thể đến từ tên cây Sal, mà những rừng Sal rậm rạp chính là đặc điểm của vương quốc mới).
Một thời gian sau, người chị cả mắc bệnh phong. Cô từ bỏ hoàng gia và một mình đi đến một khu vực hoang vu ở phía Đông Bắc Kapilavastu dự định sống nốt những ngày còn lại của đời mình trong cô độc. Tình cờ, khu rừng ấy cũng chính là nơi trú ẩn của Rama, quốc vương Banaras [Ba-La-Nại], người cũng bị bệnh phong và từ bỏ vương quốc của mình để sống ẩn dật. Đồng bệnh tương lân, Rama hướng dẫn cô toạ thiền dưới một gốc cây cổ thụ KOLAN kỳ lạ mà ông nhận thấy nó có năng lực chữa khỏi bệnh phong cho ông. Sau khi cả hai đã lành bệnh, họ thành hôn và lập nên vương quốc mới tên là KOLYA [đặt tên theo cây thần KOLAN] với thủ đô là DEVADAHA [Thành phố thần linh] và một trung tâm thờ phượng được đặt tên theo người sáng lập: RAMAGRAMA – Thành Phố Rama. Từ đấy hai Gia tộc Sakya ở Kapilavastu và Kolya ở Devadaha truyền đời kết thông gia với nhau.
CÂY THẦN KOLAN TRÊN QUÊ MẸ ĐỨC PHẬT THICH-CA NGÀY NAY

Ta có thể thấy rằng, đến thời Đức Phật Thích-ca, Kapilavastu chính là quê cha và Devadaha [cộng với Ramagrama] chính là quê mẹ của Ngài. Hai thủ đô cách nhau gần 100km mà điểm giữa của hai vương quốc chính là Khu Vườn Lumbini nổi tiếng.

II – SỰ PHÂN CHIA XÁ-LỢI CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH-CA SAU KHI NGÀI NHẬP NIẾT BÀN
Xin trích dẫn nơi đây chương PAÑCAVĪSATIMO GOTAMABUDDHAVAṂSO [LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT GOTAMA] từ BUDDHAVAMSA [Phật sử] trong Tạng Kinh thuộc Tiểu Bộ, nguồn Pali Tạng:
  Mahāgotamo jinavaro  - kusināramhi nibbuto
dhātuvitthārikaṃ āsi  - tesu tesu padesato.
[Đấng Chiến Thắng cao quý Gotama vĩ đại đã Niết Bàn tại Kusinārā. Đã có sự phân tán xá-lợi từ xứ sở ấy đến khắp các nơi.]
 Eko ajātasattussa  - eko vesāliyā pure
eko kapilavatthusmiṃ -   - eko ca allakappake.
[Một phần thuộc về (đức vua) Ajātasattu. Một phần ở thành Vesālī. Một phần ở thành Kapilavatthu. Và một phần dành cho người dân ở Allakappa.]
 Eko ca rāmagāmamhi  - eko ca veṭṭhadīpake
eko pāveyyake malle  - eko ca kosinārake.
[Và một phần ở Rāmagāma. Và một phần dành cho người dân ở Veṭṭhadīpa. Một phần dành cho người dân Malla ở Pāvā . Và một phần dành cho người dân ở Kusinārā.]
 Tumbhassa thūpaṃ kāresi  - brāhmaṇo doṇasavhayo
aṅgārathūpaṃ kāresuṃ  - moriyā tuṭṭhamānasā.
[Bà-la-môn tên Doṇa đã xây dựng ngôi bảo tháp cho bình đựng (xá-lợi). Những người Moriya với tâm hoan hỷ đã xây dựng ngôi bảo tháp thờ tro.]
 Aṭṭha sārīrikā thūpā  - navamo tumbhacetiyo
aṅgārathūpo dasamo  - tadāyeva patiṭṭhito.
[Chính vào thời ấy, có tám ngôi bảo tháp (thờ) xá-lợi, ngôi bảo tháp của bình đựng (xá-lợi) là thứ chín, ngôi bảo tháp thờ tro là thứ mười đã được thiết lập.]
           Chúng ta có thể thấy rằng: nguyên thuỷ có 8 bảo tháp thờ xá-lợi Phật Thích-ca, một bảo tháp thờ tro và một bảo tháp thờ chiếc bình dùng để phân chia xá-lợi.
        Gia tộc Kolya bên ngoại của Đức Phật Thích-ca đã xây một bảo tháp tại Ramagrama để thờ phượng 1/8 phần xá-lợi quý giá được chia cho họ. Tuy nhiên, thế sự thăng trầm, không lâu sau đó vương quốc Kolya bị xoá sổ, vương tộc Kolya tản mác khắp bốn phương trời, một phần di cư lên Thung lũng Kathmandu và sau này trở thành họ Shrestha [nghĩa là Ưu tú]. Kinh thành Devadaha cũng như Ramagrama trở thành hoang phế giống như Kapilavastu. Duy có một điểm đặc biệt là tuy vương quốc Kolya đã bị tàn lụi nhưng Bảo tháp Ramagrama vẫn được sùng kính, trở thành một trung tâm hành hương và nổi tiếng khắp cả Ấn Độ đến mức được chạm khắc lên một phù điêu ở bảo tháp Sanchi vùng trung Ấn Độ vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên.
      Khi Đại Đế Asoka [A-Dục] cho xây dựng 84,000 bảo tháp mới để hoằng pháp, Ngài lần lượt khai quật các bảo tháp nguyên thuỷ thờ xá-lợi Phật Thích-ca để thu thập xá-lợi nhằm chia cho các bảo tháp mới.
    Sau khi đã thu thập thành công xá-lợi từ 7 bảo tháp, cuối cùng Asoka với sự tháp tùng của Thầy ông là Ngài Upagupta đã tìm đến Ramagrama vào thời điểm hơn hai trăm năm trước khi Jesus Christ ra đời. Tất cả các nguồn sử liệu bao gồm cả hồi ký của Ngài Pháp Hiển và Huyền Trang đều ghi lại câu chuyện diễn ra sau đây khi Asoka đến bảo tháp Ramagrama:
       Ngày xưa sau khi đức Như Lai nhập diệt, Vua của nước nầy [Kolya] đến phân chia Xá Lợi mang về nước của mình rồi ra sức tôn tạo kiến thiết nên. Đây là nơi rất linh thiêng, có ánh sáng phát ra từ Tháp. Bên cạnh Bảo Tháp có một ao nước trong. Một con rồng [Naga] ngụ tại đây để bảo vệ và thờ phượng bảo tháp. Vua Asoka đã kiến tạo nên các Bảo Tháp mới. Bảy nước đã xây dựng xong rồi bắt đầu đến nước nầy muốn thu thập xá-lợi từ Bảo Tháp, nhưng con rồng ở hồ nầy đã biến thành một Bà La Môn đứng cúi đầu trước con voi của vua Asoka mà nói: Đại Vương có tấm thịnh tình hoằng dương Phật Pháp là một ruộng phước rất lớn, xin thỉnh đại vương giáng lâm nơi tệ xá của tôi. Vua hỏi: Nhà của ngươi cách đây xa gần? Bà La Môn đáp: Tôi là vua rồng[Nagaraja, về chuyện phiên dịch Naga =rồng và Nagaraja = Long vương cũng như Naga là ai – người hay rắn, rồng xin được có một bài viết riêng] của hồ nầy, thấy đại vương muốn xây dựng nơi phước đức nên đến thỉnh mời. Vua thọ nhận sự thỉnh mời mà đi vào Long cung, ngồi chờ một hồi lâu, rồng tiến đến nói: Tôi thọ ác nghiệp nên làm thân rồng nầy. Nay muốn cúng dường xá lợi để được tiêu tội, nên mời vua đến đây để mà đảnh lễ. Vua Asoka nghe thấy xong liền vui vẻ mà nói: Mọi sự cúng dường không phải chỉ của người trong nhân gian. Vua Asoka tự nghĩ chính mình cúng dường xá-lợi cũng không thể chu đáo và trang nghiêm hơn vua rồng nên lui về mà chẳng khai phát và sau khi đi khỏi ao rồi, chỗ nầy vẫn còn nguyên như cũ…
  Như thế tất cả các nguồn sử liệu đều thống nhất ở một điểm: bảo tháp Ramagrama thờ phượng xá-lợi nguyên thuỷ của Đức Phật Thích-ca đã không bị khai quật bởi Đại đế Asoka.

   Tuy nhiên, liệu Ramagrama có còn lưu giữ toàn vẹn phần xá-lợi nguyên thuỷ của Đức Phật Thích-ca sau thời vị hoàng đế vĩ đại nhất lịch sử Ấn Độ? Phần 2 của bài này về Các ghi nhận dọc dài lịch sử và cuộc khảo cổ mới nhất tại Nepal sẽ cho chúng ta biết điều đó.
        (Còn tiếp)
                                                                                Nguyễn Phú
                                                                Mùa Phật Đản thứ 2556 - Tháng 05/2012

30 tháng 12, 2011

DUYÊN KỲ NGỘ - 4

-->
DUYÊN KỲ NGỘ 4
CHIÊM BÁI XÁ LỢI PHẬT NGUYÊN THỦY

Xá lợi Phật Nguyên thủy trưng bày tại Indian Museum - Kolkata
                               Là một Phật tử ai cũng mong được ít nhất một lần trong đời chiêm bái xá lợi của vị Từ Phụ. 



 Lần đầu tiên mình được chiêm bái xá lợi Phật là vào dịp Tết Nguyên đán 1994 trong một ngôi chùa nhỏ ở Bình Thạnh, Saigon. Thầy trụ trì đi hành hương ở Ấn Độ mang về ba hạt xá lợi Phật. Tin loan truyền trong các Phật tử. Vào ngày đã định, từ sáng sớm hàng trăm người đã sắp hàng trong sân chùa để được chiêm bái xá lợi. Mãi đến 8 giờ sáng mình mới đến được bàn thờ Phật. Ba hạt xá lợi nhỏ như hạt gạo đặt trên vải nhung đỏ bên trong một hộp kính. Cả ba đều có bề ngoài sáng bóng, hai hạt màu trắng sữa còn một màu xanh lá chuối non.
  Mười năm sau, khi ở Phnom Penh lại được chị Chủ tịch Hội Phụ Nữ Cambodia đưa đi chiêm bái xá lợi Phật của hoàng gia Khmer. Lần này mình được xem chừng chục viên xá lợi to chừng đầu ngón tay, có đủ các màu và cũng có bề ngoài láng bóng, trông giống ngọc hơn.
  Hôm dự lễ cầu nguyện ở Bodhgaya, các nhà sư Thái lan cung kính bưng 9 bảo tháp bọc vàng đựng xá lợi Phật. Mình có tiếp cận và nhận ra những xá lợi này cũng giống như xá lợi mình đã được chiêm bái trước đây. Nghĩa là trông giống ngọc quá.


Xá lợi Phật được trưng bày trong ngày cầu nguyện tại Bodhgaya

  Điều hấp dẫn lớn nhất trong chương trình hành hương của Hội Nghị Phật giáo Toàn cầu 2011 với mình là chiêm bái xá lợi Phật ở Sarnath. Thế nhưng, khi đến Sarnath thì do khoán trắng cho một công ty du lịch địa phương, những người hăm hở đưa bạn đến các cửa hàng để mua đồ hơn là  đưa bạn đi thăm các cổ tích tàn lụi hàng ngàn năm trước, nên các tiếp viên của công ty du lịch nọ lờ đi  chẳng thấy ai đề cập đến chuyện chiêm bái xá lợi Phật…
  Trước đó, vào hôm thứ ba ở Delhi, các Thầy và vợ chồng anh Vũ có rủ đi chiêm bái xá lợi Phật ở Bảo tàng quốc gia Ấn Độ. Tiếc là hôm đó mình phải đi gia hạn hộ chiếu ở Đại sứ quán nên không đi theo cùng được. Vả lại chương trình nghiên cứu của mình sẽ quay lại Delhi trước khi về Nepal nên tự nhủ sẽ thăm viếng bảo tàng này sau vậy.
  Mình đến Kolkata để lo công việc, cố gắng thu vén trong một ngày cho xong mọi thứ và rứt ra được một ngày trọn vẹn cho  Indian Museum – Bảo tàng Ấn Độ. Đây là bảo tàng đầu tiên của châu Á, thành lập vào năm 1875. Bảo tàng này là lý do chính yếu mình phải đến Kolkata ngoại trừ công việc làm ăn. Đây là tổng hành dinh của Cục khảo cổ Ấn Độ của người Anh và là kho chứa tất cả mọi thứ khai quật được trong tất cả các cuộc khảo cổ do người Anh thực hiện trên đất Ấn. Tại đây, các mẫu vật được phân loại và Toàn quyền Anh sẽ quyết định cái nào gửi về Anh quốc cái nào để lại Ấn Độ. Dĩ nhiên, phần lớn những mẫu vật có giá trị nhất, hiếm quý nhất, tinh túy nhất, hoàn hảo nhất đã bị đưa về Anh, nhưng số lượng lớn còn tồn tại tại các kho chứa của bảo tàng thì không một bảo tàng nào khác sánh nổi. Sau này, khi Delhi trở thành thủ đô của Ấn Độ, người ta đã xây dựng một Bảo tàng quốc gia hoành tráng, hiện đại ở đấy và chuyển một số mẫu vật quý từ Kolkata về trưng bày. Tuy nhiên, Bảo tàng Ấn Độ ở Kolkata vẫn là bảo tàng số một ở Ấn Độ xét về quy mô và tính chuyên nghiệp, và những nghiên cứu của các học giả ở đây luôn luôn đóng dấu đẳng cấp quốc tế. Đó cũng là một trong những nguyên nhân người ta coi Kolkata như là “Brain of India” – bộ não của Ấn Độ.
  Lý do cuốn hút mình đến Indian Museum thực ra rất đơn giản. Ở đấy có một bộ sưu tập vô giá về Asoka và Ấn Độ cổ đại. Ngay lối vào chính của bảo tàng, người ta đã đặt các pho tượng được xác định thuộc về thời đại Asoka rồi. Điều thú vị là Bảo tàng này cho phép chụp hình với ticket là 50 rupees – kể cả 500 rupees thì mình cũng chịu ;-D… Vì điều bực mình duy nhất trong chuyến đi này của mình là một số bảo tàng thuộc hệ thống Cục Khảo Cổ không cho phép chụp hình, rút kinh nghiệm, lần sau mình sẽ tìm cho ra cách để chụp cho được he he...
  Mình hăm hở chụp tất tần tật mọi thứ trong bảo tàng từ trong các phòng trưng bày cho đến các hành lang mênh mông đầy ắp các mẫu vật thu thập từ khắp nơi trên Ấn Độ, kể cả một số mẫu vật tuyệt đẹp từ Borobodur của Indonesia, Angkor Wat của Cambodia.
  Mải mê trôi theo các phòng trưng bày, mình chụp gần hết cái thẻ 32GB, còn pin thì nhấp nháy 2%. Mình bước vào một phòng trưng bày nhỏ ở một góc sân. Vừa nhìn vào vật bày trong tủ kính một luồng điện chạy dọc sống lưng làm mình rợn người. Chiếc bình origin đựng xá lợi Phật của họ Thích-ca khai quật được vào năm 1895 ở Piprahwa, bang Bihar. Chưa bao giờ mình tưởng tượng được rằng chiếc bình quý giá và nổi tiếng kia lại nằm một cách lặng lẽ ở bảo tàng này.  Trông thấy hàng chữ Brahmi trên nắp bình mà mình vẫn chưa tin, cứ hỏi đi hỏi lại anh chàng bảo vệ trong phòng rằng đấy có phải là chiếc bình origin hay chỉ là bản sao. Khi nhận được sự xác nhận, mình vội vàng bỏ giày, camera qua một bên rồi lễ bái chiếc bình một cách thành kính. Lễ xong mình chụp hình cái bình thì hỡi ôi, hết pin. Trong sự kích thích và thất vọng cao độ cùng lúc suýt chút nữa mình bỏ lỡ một cơ duyên. May mà anh bảo vệ kéo tay mình chỉ vào một phòng kính ở giữa phòng. Bảo tàng đã làm lại mô hình thu nhỏ Bảo tháp Bharut. Và trong một chiếc bình replica có cắt mở một góc để người xem nhìn được vào bên trong đang ngự hai mảnh xá lợi Phật trên bông trắng. Hai mảnh xá lợi lớn bằng cỡ móng tay, không bóng loáng, không có màu sắc rực rỡ, chỉ một màu nâu nhạt giản dị và có nhiều lỗ nhỏ trông giống như cấu tạo xương. Đây chính là xá lợi thật không hề có chút nghi vấn! Hai mảnh xá lợi này được chính các nhà khảo cổ Anh quốc thu thập được khi khai quật bảo tháp Piprahwa, quan trọng hơn, nó thuộc về 1/8 xá lợi Phật nguyên thủy chia cho vương tộc Sakya. Mình lễ bái xá lợi thành kính không biết bao nhiêu lạy. Khách tham quan ngạc nhiên thấy một anh chàng ngoại quốc lạy như tế sao cái hộp kính nên tò mò dừng lại xem thử. Khi phát hiện ra đó là xá lợi Phật thì hầu hết kính cẩn chiêm bái theo kiểu Hindu, một số ít thì bắt chước mình quỳ lạy. Có lẽ đó là lần đầu tiên căn phòng trưng bày im lìm này trở nên nhộn nhịp. 

Bình đựng xá lợi Phật nguyên thủy nổi tiếng khai quật từ Piprahwa, trên nắp có khắc dòng chữ Brahmi: "Phần xá lợi này thuộc về họ Thích-ca". Hiện đang được trưng bày tại Indian Museum - Kolkata

   Hên cho mình, có mang một cục pin dự trữ cất trong túi xách gửi ở cổng. Thay pin và quay lại chụp được một lô hình. Một bất ngờ thú vị.
   Sau bốn tuần ngang dọc đất Ấn, mình quay lại Delhi để kết thúc chuyến khảo cứu. Dĩ nhiên là có một ngày dành cho Bảo Tàng Quốc Gia Ấn Độ rồi. Cũng giống như ở Indian Museum, mình chụp tuốt tuồn tuột mọi thứ ngay từ cổng vào. Biết rằng ở đây có xá lợi Phật, mình hồi hộp vừa muốn chạy ngay đến căn phòng ấy, vừa cố kìm nén cảm xúc để cố gắng chụp hình các mẫu vật tuyệt đẹp trước. Hai tiếng sau, trong khi đang mải mê chụp một pho tượng apsara tuyệt đẹp mang về từ Khajuraho, một phụ nữ tiếp cận mình giọng rưng rưng xúc động. “Can you take for me some photos?” “Why not?” mình cười, ra dấu cho bà đứng bên cạnh pho tượng. “No, no, not this.” Bà chỉ tay về gian phòng kế cận “There is relics of Buddha.” Ôi chao. Thế là mình đi như chạy theo bà ta.
  Đó là một căn phòng rộng rãi trưng bày các mẫu vật Phật giáo cổ đại. Cuối phòng là một lồng kiếng cao chạm trần bao bọc lấy một bảo tháp bằng vàng đặt trên bệ cao. Bảo tháp tạo hình kiểu Thái Lan với mái nhọn vút lên, trên đỉnh gắn một viên kim cương. Bên trong bảo tháp là một bệ tròn nhiều tầng, tầng đáy có đường kính chừng 20cm. Lần lượt các xá lợi của Đức Phật Thích-ca được đặt trên các tầng, lớn bên dưới, nhỏ bên trên. Có khoảng 20 mảnh xá lợi Phật, mảnh lớn nhất dài chừng 6-7cm, nhỏ nhất cũng 2-3cm. Tất cả đều có màu nâu nhạt giống như xá lợi trưng bày ở Indian Museum-Kolkata. Thật ra đây chính là phần xá lợi trước kia thuộc về Indian Museum. Chính phủ Ấn đã xem đây như quốc bảo nên cho mang về đặt trong bảo tàng quốc gia. Hoàng gia Thái đã tặng bảo tháp bằng vàng để thờ phượng xá lợi Phật cho bảo tàng vào năm 1997.

Xá Lợi Phật Nguyên Thủy trong Bảo Tàng Quốc Gia Ấn Độ

Gia đình Phật tử Malaysia Bee Leng Choo hoan hỷ chụp hình trước tháp xá lợi

  Trong lồng kính phía trước bên dưới bảo tháp còn trưng bày hai chiếc bình đựng xá lợi. Chiếc bên phải chỉ là bản sao. Chiếc bên trái có dấu vết bị vỡ chính là chiếc bình xá lợi thứ hai khai quật được cùng chỗ Piprahwa với chiếc bình ở bảo tàng Kolkata. Tuy nhiên chiếc bình này kém quan trọng hơn vì không có khắc hàng chữ nào.  

Bình đựng xá lợi Phật nguyên thủy

  Mình xúc động vô ngần, trông thấy chị Bee Leng Choo rưng rưng nước mắt hạnh phúc đứng bên cạnh tháp xá lợi suýt chút nữa cũng không cầm được nước mắt. Gia đình người Malaysia này là những Phật tử nhiệt thành. Đến Ấn Độ chỉ để chiêm bái xá lợi Phật. Nhóc con chị sáng nay táy máy thế nào làm hỏng mất chiếc máy ảnh.Mình chụp hình cho gia đình chị và hứa làm theo yêu cầu của chị sẽ gửi hình qua meo (mình đã gửi hình gia đình chị và cả một bộ ảnh chụp xá lợi Phật cho chị khi vừa về tới Nepal, chị cảm ơn quá xá và cho biết đã khoe với mọi người trong cộng đồng Phật tử ở Kuala Lumpur và pót lên facebook). Thấy có đông người quá, mình quay đi chụp nốt các gian phòng khác. Một lúc sau trở lại nơi ấy khi vắng người, mình liền thực hành nghi thức bái lạy xá lợi và kinh hành vòng quanh tháp. Ông cảnh sát trực trong phòng rất hay. Ông đến đứng gần đó và không để ai làm phiền việc chiêm bái và cầu nguyện của mình (chuyện chiêm bái và cầu nguyện các thánh tích trong các bảo tàng hay đền miếu là bình thường ở Ấn Độ và Nepal. Chuyện này mà xảy ra ở Bảo tàng lịch sử TPHCM chắc thiên hạ bu tới coi, rồi bảo vệ bốc mình chở đi nhà thương Biên Hòa quá… he he)…
   Chuyến đi nghiên cứu của mình trên đất Ấn vậy là thành công mỹ mãn đến phút cuối. Mình được nạp đầy năng lượng để vững bước thực hiện những nghiên cứu của mình. Bao nhiêu duyên kỳ ngộ cùng đến trong một chuyến đi vượt quá tất cả những mong ước của mình. Hạnh phúc đến bất ngờ từ những phút giây nhỏ nhặt, chỉ cần ta chú tâm lắng nghe, trông thấy và đón nhận với một tấm lòng rộng mở. 
   
                    Ngày cuối cùng của năm 2011
  Chúc tất cả mọi người một năm mới an lạc và tràn đầy hạnh phúc!