Hiển thị các bài đăng có nhãn Sakya. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sakya. Hiển thị tất cả bài đăng

6 tháng 4, 2019

TIỀN NHIỀU ĐỂ LÀM GÌ?


  SỰ THỜ PHƯỢNG THẦN TÀI DZAMBALA TRONG PHẬT GIÁO
 (Triết lý về sự giàu có của PHẬT GIÁO Tây Tạng)
Thuở xưa, khu vực cội bồ đề thiêng, nơi Đức Phật Thích Ca thành đạo vẫn còn hoang vắng, chuyện kể rằng Đại sư Atisha đang tản bộ trong Bồ-đề-đạo-tràng thì gặp một ông lão sắp chết đói. Ngài Atisha rất buồn cho thảm cảnh  của ông lão; không có chút thức ăn nào để bố thí cho ông lão, nên Ngài đã cắt thịt của mình để cho ông lão.
“Làm sao tôi có thể ăn thịt của một vị tăng?” Ông lão từ chối ăn thịt Ngài.
 Đại sư Atisha nằm xuống, cảm thấy một nỗi buồn và bất lực thì  một luồng sáng trắng đột nhiên xuất hiện trước ngài. Đó là Đức Quán Thế Âm nghìn tay, Ngài nói với Atisha, “Ta sẽ hóa thân thành Dzambala, một vị Phật của sự giàu có để cứu khổ chúng sinh. Ta sẽ làm dịu bớt sự nghèo khổ của họ để họ sẽ không bị phân tâm khỏi sự thực hành lòng từ.”
Ai cũng muốn có tiền! Như mọi người biết, khi một ai đó giàu, thật dễ dàng để không ích kỷ và phát triển lòng bao dung. Bởi vậy, mục đích sùng mộ hay hành trì theo Dzambala là để loại trừ những nỗi bất an, lo lắng về tiền bạc để không bị phân tâm bởi sự nghèo khổ và thiếu thốn về tài chính mà tập trung cho sự trưởng dưỡng lòng Từ Tâm, Thanh tịnh Thân Tâm và hành trì tu tập.
***********
HÌNH TƯỢNG:


https://www.facebook.com/nguyenphunepal/

Màu da vàng kim của Dzambala tượng trưng sự thịnh vượng, tăng trưởng và phát triển: trong ngắn hạn, Ngài có thể mang đến cho chúng ta của cải vật chất và giúp đỡ chúng ta khỏi nghèo túng, nhưng quan trọng hơn, pháp hành trì  hay lòng lòng sùng mộ Ngài có thể mang cho chúng ta sự giàu có tâm linh và phát triển cá nhân để trở thành người hoàn thiện hơn.

4 tháng 4, 2019

PHẬT DƯỢC SƯ (Medicine Buddha – Bhaiṣajyaguru)


https://www.facebook.com/nguyenphunepal/


TƯỢNG PHẬT DỰỢC SƯ (MEDICINE BUDDHA)
do Nghệ nhân PIPENDRA SHAKYA thực hiện
Mạ vàng 24K toàn bộ, Cao 36cm, nặng 5,66 kg


HÌNH TƯỢNG: Hình tượng thông thường chúng ta thấy là tay trái cầm nhánh thuốc, tay phải cầm bình thuốc, thân mặc cà sa, ngồi kết già trên hoa sen, có khi tay trái cầm bát thuốc, tay phải cầm viên thuốc, nhằm để hiển bày lòng từ bi trừ sạch bệnh khổ (tất cả những bệnh tật thân thể bao gồm cả tâm bệnh và nghiệp ác) cứu độ chúng sanh.
 
DANH HIỆU: DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG NHƯ LAI PHẬT
Ý NGHĨA DANH HIỆU:
-DƯỢC SƯ: thầy thuốc hoặc phương thuốc, tượng trưng cho sự trị liệu Thân Bệnh, Tâm Bệnh, Nghiệp Bệnh của chúng sanh.
-LƯU LY QUANG: Ánh sáng rực rỡ có ánh xanh lam như Ngọc Lưu Ly (Lapis Lazuli). Tượng trưng cho sự thanh tịnh của ba Nghiệp: Thân-Khẩu-Ý.
ĐẠI NGUYỆN CỦA PHẬT DƯỢC SƯ: cứu vớt nỗi khổ, trị lành các căn bệnh và giúp cho mong cầu của chúng sanh được thành tựu đầy đủ.

22 tháng 3, 2019

VUI HỘI HOLI (1) : GIỚI THIỆU LỄ HỘI SẮC MÀU ĐÓN XUÂN ẤN ĐỘ


Ở Bắc Ấn Độ lễ hội lâu đời, phổ biến và ấn tượng nhất hàng năm chính là Holi. Lễ hội này thường được người ta gọi bằng cái tên “Lễ hội sắc màu”, năm nay bắt đầu từ ngày 20/03 kéo dài đến ngày 22/03. 



Người ta cho rằng lễ hội Holi này xuất xứ từ vùng Mathura, nay thuộc tiểu bang Uttar Pradesh (Bang Hướng Bắc) của Ấn Độ. Đây chính là quê hương của Thần Krishna, vị thần phổ biến bậc nhất đối với thế giới Hindu Bắc Ấn. Thần Krishna được thờ phụng như là hoá thân của Thần Tối cao Vishnu và là vị thần của lòng từ và tình yêu.











Xuất xứ tên gọi của lễ hội Holi là từ truyền thuyết Thần Vishnu hiển lộ thần thông bảo vệ tín đồ của mình khỏi bị quỷ dữ làm hại và thiêu cháy nữ quỷ Holika. Còn nguồn gốc của phong tục nổi tiếng “xịt nước và bôi màu vào nhau” là từ những trò rắn mắt của chàng thanh niên Krishna khi chòng ghẹo nàng Radha, người sau này trở thành vợ của Krishna. Vốn dĩ Krishna có làn da sẫm màu nên trong lễ hội chàng đã dùng màu và nước màu tung vào người Radha để nàng có cùng “màu da” với mình. Về mặt thời tiết trong năm, ngày diễn ra lễ hội Holi chính là ngày Xuân Phân (năm nay 2019 là 20/03) đánh dấu bắt đầu mùa xuân, chấm dứt những ngày mùa Đông lạnh lẽo nơi xứ Ấn.

KRISHNA VUI HỘI HOLI CÙNG RADHA VÀ BẠN BÈ

15 tháng 8, 2018

LỄ VU LAN NGUYÊN THỦY

Nhân mùa Vu Lan xin post lại loạt bài đã đăng trên Giác ngộ vài năm trước về Lễ Vu Lan. Lý do là vì mình đọc được rất nhiều bài viết đảo điên thứ tự về lễ Vu lan, kể cả của các "học giả" . Thay vì phải lần tìm về nguồn cội của một nghi lễ có xuất xứ từ chính Đức Phật (do chính Phật Thích-ca lập nên, nghĩa là trên 2500 năm), tại địa phương của nó, các "học giả" nhà ta lại lộn đầu xuống đất, dịch ngược từ VU-LAN của tiếng Trung Quốc sang tiếng Sanskrit thành ULLAMBALA, khiên cưỡng theo cái nghĩa TỘI TREO NGƯỢC - một trong những hình phạt ở địa ngục. Đăng bài này lại để nhắc các "học giả" rằng Đạo Phật xuất xứ từ Ấn Độ, không phải Trung Quốc và dịch ngược danh từ riêng từ tiếng Trung quốc về tiếng Phạn sẽ đi sai đường. Hãy trả lại Cesar cái gì của Cesar!
_______________________________

PHN 1: KHẢO SÁT VỀ NGUỒN GỐC LỄ VU-LAN Ở KATHMANDU, NEPAL
*********
Vu Lan "Bồn"
Chúng tôi đoan chắc rằng GŪLA chính là từ nguyên của Vu-lan khi phiên âm sang tiếng Trung Quốc. Cũng như Vu-lan bồn là để chỉ cái chậu chứa năm thứ vật thực cúng dường chư Phật hoặc chư tăng, ni trong ngày Pancha Dana; nghĩa bóng là Lễ Cúng Dường mùa Vu Lan (không phải dịch ngược Vu lan từ tiếng Trung sang tiếng Phạn thành ullambala - tội treo ngược rồi áp đặt nghĩa Lễ Đảo Huyền cho Vu lan như một số "học giả" vẫn làm vào kỳ Vu lan hàng năm - NP).
Một số “bồn” dùng trong mùa Vu-lan của người Newari: GULPA, và GULU dùng đựng các vật thực cúng dường Chư Phật (bình bát bằng đồng). GULPA và GULU chính là từ nguyên của Vu-lan Bồn.





  Trong quá trình 5 năm cư trú tại Nepal, chúng tôi đã có dịp may để khảo sát những phong tục cổ truyền của dân chúng địa phương tại đây. Một trong những lễ trọng trong năm, hoặc có thể nói là quan trọng nhất, của Phật tử ở đây là Đại lễ Vu-lan. Lễ Vu-lan của Nepal có gì khác với lễ Vu-lan tại Trung Quốc và Việt Nam? Nó được thực hiện như thế nào? Nguồn gốc của lễ ấy?

3 tháng 7, 2018

TIẾNG NEPAL - NEPAL BHASA (PHẦN 1)


TIẾNG NEPAL LÀ GÌ?
TIẾNG NEPALI HIỆN TẠI CÓ GỐC TỪ HINDINEPAL BHASA (tiếng Nepal) thực ra không phải là tiếng Nepali hiện tại được Quốc hội Nepal công nhận làm quốc ngữ cho một quốc gia nhiều tộc người,  nhiều ngôn ngữ. 

    Nepal Bhasa thực ra là ngôn ngữ chính thức của người Newar (còn gọi thông dụng là tiếng Newari),  chủ nhân của Nepal Mandala.
Sau khi vương tộc Shah đánh bại được các vua Malla và chiếm được Thung lũng Kathmandu vào năm 1768,  để dập tắt sự phản kháng của người Newar và thiết lập sự cai trị tuyệt đối của mình,  triều đại Shah đã lấy tiếng Hindi của Ấn Độ rồi chế biến lại chút  đỉnh để  tạo thành tiếng Nepali của triều đại mới.  Thâm hiểm hơn,  triều đại Shah chẳng những đặt tiếng Newari ra khỏi đời sống văn hoá,  chính trị của vương quốc Nepal mà còn ăn cắp luôn cả cái tên Nepal Bhasa để đặt cho thứ tiếng mới của mình.
Sự huỷ hoại    hệ thống của triều đại Shah suốt 200 năm qua đã hầu như xoá sổ một nền văn minh có quá khứ huy hoàng trải dài 2000 năm,  có tiếng nói,  chữ viết đặc sắc.


BỘ CHỮ RANJANA LIPPI CỦA NGƯỜI NEWAR Ở KATHMANDU VALLEY

31 tháng 5, 2015

KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN 2559

NHÂN DỊP PHẬT ĐẢN 2559, XIN KÍNH CHÚC TẤT CẢ QUÝ ĐẠO HỮU ĐƯỢC TINH TẤN TRONG VIỆC TU HỌC!
"Namo Tassa Bhagavato Arahato Samma Sambuddhassa" 
"Honour to the Blessed One, the Exalted One, the fully Enlightened One."
__________

Xin kính tặng Quý Đạo Hữu một số hình tượng về Phật Sakya đản sinh tại Lumbini.


Tượng Phật đản sinh có thần nhất (theo cảm nhận của tác giả). Tượng đặt trong sân vườn chùa Quốc Gia Nepal ở Lumbini ngay bên cạnh Sacred Garden.



Đôi mắt có hồn , ám ảnh tâm trí tác giả kể từ lần gặp đầu tiên. Dường như Ngài đang xót thương cho Nhân Loại đang trầm luân trong Bể Khổ.

24 tháng 11, 2013

LÁ THƯ NEPAL 7: BUDDHA PAINTINGS

 Mời các bạn xem lại bài đầu tiên, cơ duyên để có Blog này: MỘT PHẬT ĐẢN KHÔNG THỂ NÀO QUÊN!
*****************************
Bộ ba tranh: Giác Ngộ-Truyền Dạy-Niết Bàn   -  Acrylic trên bố

    Mình vẽ tranh suốt mấy năm để sống ở Kathmandu-Nepal, từ cuối 2006 cho đến giữa năm 2010 (từ giữa 2010 đến nay bận làm nhiều việc khác nên không vẽ thêm được bức nào).
    Hai năm đầu, chủ đề và style thì lung tung, vì toàn vẽ theo đơn đặt hàng của các Gallery bán tranh ở các trung tâm du lịch như Thamel, Swayambhu, Bodhanath, Bhaktapur. Sống ở xứ lạ quê người, tứ cố vô thân phải bươn chải hết mức có thể, và phải nhẫn nhịn hết mức có thể. Có khi chỉ đủ 20 rupee (1/4 $=5000VNĐ) để đi 1 cuốc xe bus từ Swayambhu (nơi mình mướn một tầng nhà làm phòng vẽ đồng thời ăn ngủ ở đó luôn) đến Bhakatpur cách xa hơn 20km. Mang một mớ hơn chục tranh đi chào từng gallery mà bị chê ỏng chê eo, ép giá; cuối cùng thuyết phục được một anh chàng mới mở gallery mua hết cả mớ tranh mà chỉ tạm ứng có 50$ còn lại trả sau 01 tháng. Hic hic...
  Thị trường tranh ở Nepal hiện tại coi như con số không mặc dù Nepal không hiếm họa sĩ và có cả họa sĩ lớn từng sang Pháp sống, làm việc và kết bạn với Picasso (sẽ viết về ông này trong một entry khác).

17 tháng 11, 2013

LỄ HỘI GANESH JATRA Ở CHABAHIL-KATHMANDU


GANESH JATRA 2013


  Đây có thể là lễ hội xưa nhất của Kathmandu còn tồn tại cho đến ngày nay (khoảng hơn 2200 năm).
Ganesh Jatra kéo dài bốn ngày bắt đầu từ tối hôm nay. Là lễ hội của cộng đồng dân bản địa Newar khu vực Chabahil. Đây là thủ đô xưa nhất của người bản địa Thung Lũng Kathmandu, tên là Deopatan  (Deo: thần thánh; Patan: thành phố- Deopatan: Thành phố thần thánh, một cách xưng tụng thủ đô thời cổ đại).
 Người bản địa xưa hơn hết ở Kathmandu Valley là người Kirat (chính là một bộ tộc thuộc sắc dân Naga, xưa kia India gọi là Mleccha [Mã Lai theo cách dịch của ông Bình Nguyên Lộc). Tộc Kirat này đã từng được ghi nhận trong lịch sử India qua việc tham gia trận đại chiến Bharat nổi tiếng , sau này ghi lại thành sử thi Mahabharata. Khi Alexander tấn công India, Chandragupta Maurya (ông nội của  Asoka) được sự giúp đỡ của các đội quân thiện chiến người Kirat đã chặn đứng bước tiến qua phía Đông của vị hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Tây phương. Sau đó, Chandragupta thành lập nên đế chế Maurya nổi tiếng.
 Asoka, sau khi đã trở thành một Phật tử thuần thành, có làm một cuộc hành hương thăm viếng hầu khắp các thánh tích Phật giáo ở India. Sau khi thăm viếng Lumbini và dựng trụ đá ở đó, Asoka vượt qua dãi Terai đi lên tận Thung Lũng Kathmandu là thủ đô của vương quốc Kirat thời bấy giờ. Tại Kathmandu, ông xây dựng 5 bảo tháp ở nơi ngày nay là thành phố Phật giáo Patan. Ông gã con gái của mình, Công chúa trưởng Charumati cho một hoàng tử Kirat. Sau đó Asoka quay về lại India còn Charumati ở lại Thung lũng Kathmandu.

4 tháng 11, 2013

ĂN TẾT INDIA-DIWALI Ở NEPAL - PHẦN 4

NGÀY THỨ TƯ: GORU PUJA   và   MHAPUJA


GORU PUJA: (OXEN PUJA - NGÀY CỦA BÒ ĐỰC)






MHA PUJA: SELF-WORSHIP ( NGÀY CỦA BẢN THÂN)












17 tháng 10, 2013

QUAN ĐIỂM CỦA TÔI VỀ TÔN GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG


  • TẤT CẢ CÁC TÔN GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG ĐỀU DẠY NGƯỜI TA LÀM ĐIỀU TỐT, LÀM LÀNH TRÁNH DỮ, RÈN LUYỆN THÂN TÂM.
  • TẤT CẢ CÁC TÔN GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG ĐỀU BÌNH ĐẲNG NHƯ NHAU.
  • TÔI KHÔNG CUỒNG TÍN CŨNG NHƯ KHÔNG HẠ THẤP HAY TÔN CAO BẤT KỲ MỘT TÔN GIÁO HAY TÍN NGƯỠNG NÀO.
  • NẾU CÓ VIẾT BÀI LIÊN QUAN ĐẾN CÁC TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG, PHONG TỤC, TẬP QUÁN Ở MỌI NƠI TÔI CÓ DỊP ĐẶT CHÂN ĐẾN TÔI SẼ CỐ GẮNG TƯỜNG THUẬT NHỮNG GÌ TÔI THẤY ĐƯỢC, BIẾT ĐƯỢC, HIỂU ĐƯỢC; TUYỆT ĐỐI TRÁNH BÌNH LUẬN (NO COMMENT).

24 tháng 5, 2013

ĐỨC PHẬT SAKYA ĐẢN SANH - SỰ THẬT HAY HUYỀN THOẠI?

KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN 2557

Tượng Phật đản sanh có "thần" nhất, đẹp nhất mà tôi từng được biết. Vốn dĩ là một pho tượng đồng, không biết vì lý do gì người ta phủ những lớp sơn thật dầy lên toàn pho tượng. Thời gian đã cải chính những lỗi lầm của những người sơn tượng. Những dấu vết ngẫu nhiên mà thời gian mấy chục năm qua lưu lại đã hoàn thiện bức tượng. Hãy ngắm đôi mắt của tượng, ta như cảm thấy lòng từ bi, sự xót thương cho chúng sinh của Trái Đất này trầm luân trong Vòng Luân Hồi. Tượng được đặt trong khu vườn bên trái của ngôi chùa Quốc Gia Nepal ở Lumbini.Đây là ngôi chùa đầu tiên tại Lumbini (thập niên 1950) do chính phủ hoàng gia Nepal dựng nên.




 Sau đây xin mời các bạn xem qua bài nghiên cứu rất hay của tác giả Tâm Quảng

****************
Tác giả: Tâm Quảng
Lời cảm tạ:  Tác giả chân thành cảm tạ GS TS Trần Thị Lợi, nguyên chủ nhiệm Bộ Môn Phụ Sản trường Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh đã đọc bài viết trước đây của tôi về đề tài này (Đức Phật ra đời như thế nào?) và đã gợi cho tôi nhiều ý kiến quý báu để tôi viết lại bài này.  

13 tháng 5, 2013

CÁC BÉ SAKYA XUẤT GIA NGÀY CÁT TƯỜNG

  Hôm nay, 13/05/2013, theo lịch Ấn/Nepal là ngày tốt lành nhất trong cả năm. Mình đến thành phố cổ Phật giáo Patan để xem Lễ hội Macchindranath Rato- Lễ hội Phật giáo lớn nhất, cổ xưa nhất cả Kathmandu và Nepal.
  Mãi đến 4 giờ lễ hội mới bắt đầu nên mình tranh thủ ghé thăm mấy người bạn họ Sakya (Thích-ca). Tán gẫu với anh bạn Asoka Shakya mới hay nhân ngày tốt này, cộng đồng Shakya có làm lễ Chuda Karma cho các bé trai trong họ tại Golden Temple. Đây là một phong tục có từ thời Đức Phật Sakya, bắt nguồn từ sự kiện Ngài làm lễ xuất gia cho 500 vương tử Sakya ở thành Kapilavastu.
  Mình tranh thủ chụp một số ảnh các bé trai Sakya như là bonus cho ngày Akshaya Trithiya (đúng là may mắn nhân lên gấp bội hi hi).
   Mời các bạn xem qua hình ảnh các bé trai Sakya trong lễ Chuda Karma. Dễ thương quá phải không?
  
Phía dưới là bài về lễ này đã đăng trên nguyệt san Giác Ngộ năm 2006.
*************





7 tháng 3, 2013

VỀ VỚI NGƯỜI THARU

NGÀY 1: dự trù mãi đến khi kết thúc chuyến đi mới post bài vì phải đi vào các làng Tharu hẻo lánh, không có net. Nhưng đi được 400km đến Butwal thì hết xăng nên phải ở lại đây một đêm. May KS có net nên tranh thủ xài ké post vài hình đã chụp bữa nay.

Kế hoạch là khởi hành sớm nhưng hôm nay các đảng chính trị người Madeshi bandha nên mãi tới 8 giờ mới xuất phát được. Kinh nghiệm ở các nước Nam Á là khi có bandha các bạn đừng nên ra đường sớm dù bọn tổ chức nào cũng nói là cho phép xe của phóng viên, khách du lịch nước ngoài, cấp cứu lưu thông. Đừng tin! Sáng nay một chiếc xe của đài truyền hình đi làm tin buổi sáng đã bị tấn công. Vì thế mà dù xe mình có dán "bùa" PRESS phía trước mình vẫn phải chờ vài tiếng đồng hồ cho mấy cái đầu của bọn tiểu yêu nguội bớt.

Chúa nhật này (10/03/2013) là đại lễ hội quan trọng nhất trong năm của Shaivism (một tông của Hindu giáo tôn thờ thần Shiva; tông còn lại là Vaishnavism thờ thần Vishnu). Từ mấy ngày nay, các SADHU (ông đạo Hindu) từ khắp nơi ở Nepal và India lũ lượt kéo về Pashupatinath-ngôi đền thiêng nhất của Hindu ở Kathmandu để tham dự lễ hội này.

14 tháng 1, 2013

VẺ ĐẸP THARU

Hôm nay mình dự lễ hội Maghi (Tết) của người Tharu.
Tharu là tộc người có những bộ trang phục sặc sỡ và những bộ trang sức cầu kỳ nhất Nepal.
Xin mời các bạn xem qua một vài hình ảnh mình "chộp" được hôm nay. Đáng yêu quá phải không?
Tim mình giờ này vẫn còn nhảy thình thịch đây này....
 
Xin bấm vào các hình để phóng to lên!



13 tháng 1, 2013

NHỮNG BÀI VIẾT CŨ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN HỌ THÍCH-CA

 1-Dòng tộc và quê hương Đức Phật

Lịch sử » Đức Phật
23/03/2008 21:21 (GMT+7)

 http://www.giacngo.vn/lichsu/ducphat/2008/03/23/52C450/


2- LINKS: Các bài về họ Sakya http://nguyenphunepal.blogspot.com/search/label/Sakya

3- LINK: Bảo tháp Ramgram 1: http://nguyenphunepal.blogspot.com/2012/05/ramgram-bao-thap-nguyen-thuy-luu-giu-xa.html
4- LINK: Bảo Tháp Ramgram 2:  http://nguyenphunepal.blogspot.com/2012/06/ramgram-bao-thap-nguyen-thuy-luu-giu-xa.html  
5- LINK: Chudakarma-Lễ Xả nghiệp Xuất gia của họ Thích-ca: http://nguyenphunepal.blogspot.com/2010/09/chuda-karma-le-xa-ngiep-xuat-gia-mot.html

 

LTS: Tìm về quê hương Đức Phật là khát vọng lớn của nhiều nhà nghiên cứu và học giả, xưa cũng như nay. Qua khảo sát bằng thực địa cũng như dựa vào những chứng tích, truyền khẩu của dòng họ Shakya hiện nay đang sống ở Nepal, anh Nguyễn Phú đã cung cấp một huớng đi mới trong việc tìm hiểu về quê hương cũng như dòng họ của Đức Phật. Việc lội ngược dòng lịch sử gần ba ngàn năm để tìm lại giá trị văn hóa cổ xưa mà hiện nay đã mang tính toàn nhân lọai là một việc làm ý nghĩa và rất đáng trân trọng. Nguyệt san Giác Ngộ xin giới thiệu bài viết được gởi về từ thủ phủ Kathmandu, kinh đô của Nepal.
  Nguồn gốc Kapilavastu và vương tộc SHAKYA
Nguồn gốc nguyên thủy của vương tộc Shakya bắt nguồn từ Kosala, một vương tộc thuộc dòng Aryan cai trị vùng đất ở chân dãy Terai. Câu chuyện bắt đầu từ vua Okkaka. Vua Okkaka thuộc dòng dõi mặt trời, tông tộc Ikshanku. Sau khi người vợ đầu tiên chết, nhà vua cưới một người vợ khác. Hoàng hậu trước đó đã sinh cho nhà vua chín người con (4 trai, 5 gái). Khi hoàng hậu thứ hai sinh hạ một hoàng nam, vì muốn giành lấy vương quốc cho Jayantu con của mình đã gây áp lực với nhà vua để ông phải đưa các con của người vợ trước đi xa. Vua Okkaka vì quá si mê hoàng hậu nên đành phải chấp nhận yêu cầu của bà ấy. Các vương tử: Ulkamukha, Karandu, Hastinika, Sinisura, và các công chúa: Priya, Supriya, Ananda, Vijita, Vijitasena được lệnh nhà vua phải rời khỏi vương quốc Kosala vào sống nơi rừng sâu.


Những vương tử và công chúa cành vàng lá ngọc rời khỏi kinh đô Saketa tiến về phía dãy Himalaya. Trải qua bao vất vả, cực nhọc họ đến một vùng đất là nơi ẩn tu của vị ẩn sĩ Kapilamuni. Được ẩn sĩ cưu mang và cho phép, họ đã kiến lập nên một vương quốc và đặt tên là Kapilavastu (hoặc Kapilanagara) để vinh danh ẩn sĩ Kapilamuni.
Thời gian cứ trôi, những hoàng tử và công chúa của xứ Kosala đi đày đã đến tuổi lập gia đình. Bởi tập tục kết hôn với người cùng dòng máu là bình thường thời bấy giờ, tám anh em kết  hôn với nhau và tạo ra tông tộc Shakya (tập tục này ngày nay một số gia đình họ Shakya vẫn còn giữ, tức là chỉ kết hôn với người mang họ Shakya). Vị công chúa lớn tuổi nhất là Priya được bổ nhiệm làm mẫu hậu, còn hoàng tử Ulkamukha được bổ nhiệm là quốc vương đầu tiên của vương quốc non trẻ Kapilavastu.
Một ngày nọ, Okkaka -nhà vua xứ Kosala, nghe kể về cuộc phiêu lưu của những đứa con của mình. Ông quá kích động và kêu lên rằng: “Sakya-Vata-bho-Kumara”(nghĩa là: những đứa trẻ phiêu lưu đã có kết thúc tốt đẹp). Từ câu nói này, về sau, người ta thường dùng tên Sakya (Shakya) để chỉ vương quốc hoặc dòng tộc này, còn Kapilavastu là kinh đô của vương quốc đó.
Theo nghiên cứu của Giáo sư Oldenberg, Kapilavastu - vương quốc của những người Shakya, là một tiểu quốc cộng hòa thuộc phạm vi cai quản của một nhà vua lớn hơn ở Ấn Độ, cụ thể là Kosala. Như ta đã thấy từ quá trình hình thành của nó, Kapilavastu đã bầu chọn người cai trị  một từ trong các thành viên hoàng gia và sự thần phục Kosala là tất nhiên vì đó là vương quốc tổ tiên của họ.
… Ngành kinh tế chính của Kapilavastu là nông nghiệp. Những làng mạc quần tụ quanh những cánh đồng lúa và gia súc thì chăn nuôi ở khu vực cạnh rừng. Nơi đây cũng có những người thợ thủ công: thợ mộc, thợ rèn, thợ gốm,…, tầng cấp Brahmin (Bà la môn). Có một vài cửa hàng nhưng không nghe nói có thương gia và nhà băng. Những đường phố hẹp chật ních voi, ngựa, xe và người. Việc hành chính và tư pháp của vương quốc được giải quyết công khai tại Hội trường công cộng (Mote Hall - Sansthagara). Nhà cửa của kinh thành quay mặt ra đường được trang trí bằng các ban công và các tháp lầu. Hoàng cung được xây dựng kiên cố với các cổng lớn giữa các bức tường và tháp canh cao vút. Toàn bộ kinh thành được bao quanh bởi một cái hào, có chỗ có đến hai hào, một hào bùn, một hào nước. Những cung điện rộng lớn và cầu kỳ bằng gỗ và gạch là nơi diễn ra những sinh hoạt xa hoa của cung đình...
Đó là những mô tả của Giáo sư Rhys Davis về nước cộng hòa Kapilavastu của vương tộc Shakya qua những cứ liệu khảo cổ thu thập được về địa danh này.
                     Vương tộc Koliya - Bên ngoại thái tử Siddhartha
Nguồn gốc của vương tộc Koliya bắt đầu gần như cùng thời điểm và con người với vương tộc Shakya.
Chúng ta đã biết  Priya là mẫu hậu đầu tiên của Kapilavastu. Tuy nhiên, một thời gian sau cô bị nhiễm bệnh hủi. Cô rời bỏ vương quốc và đi đến sống trong một cái hang cọp (vyagghapatha) trong khu rừng dưới chân núi phía Đông Bắc Kapilavastu. Ngẫu nhiên, Rama - vua của vương quốc Banaras (Ba La Nại) cũng bị nhiễm bởi cùng một chứng bệnh ấy và đến sống tại khu rừng gần cái hang mà Priya ở. Một hôm Rama đến ngồi dưới gốc cây Kolan cổ thụ trong khu rừng và kỳ diệu thay chứng bệnh của chàng đã biến mất. Khi gặp Priya trước cái hang cô ở, Rama chỉ cho cô cái cây huyền diệu và cô cũng được khỏi bệnh sau khi ngồi xuống dưới gốc cây ấy. Sau khi khỏi bệnh, hai người kết hôn với nhau, sinh hạ 32 người con và tạo lập nên thành phố Devadaha ở phía Đông biên giới Kapilavastu. Từ đấy đã hình thành nên họ tộc Koliya. Vương quốc này được biết đến với nhiều tên gọi như: Devadaha,  Vyaghrapura, Kolinagara, Ramagrama. Mỗi cái tên gắn liền với một sự tích tạo lập nên vương quốc. Devadaha (Thành phố thần thánh) là để tôn  vinh các vị thần nơi họ tạo lập nên vương quốc mới. Vyaghrapura là tên cái hang cọp mà hoàng hậu Priya đã ở. Kolinagara là để vinh danh cây thần Kolan đã chữa khỏi bệnh cho nhà vua và hoàng hậu. Còn Ramagrama chính là để vinh danh nhà vua Rama - người đã tạo lập nên vương quốc.
Do có cùng nguồn gốc nên vương tộc Shakya ở Kapilavastu và vương tộc Koliya ở Devadaha đã có những mối quan hệ hôn nhân mật thiết. Nhiều đời giữa  hai vương tộc đã thành thông gia. Đến thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, phụ vương Ngài đã cưới cả hai chị em công chúa Mayadevi và Prajapati, còn chính Ngài cũng đã kết hôn với công chúa Yasodhara tuyệt đẹp của vương tộc Koliya. Việc cai trị ở Devadaha cũng theo mô hình của Kapilavastu, nhưng Koliya có đến hai trung tâm quyền lực - một ở Devadaha, một ở Ramagama.
Chúng ta đều biết rằng sau khi Đức Phập nhập Niết bàn tại Kusinaga, xá lợi của Ngài được chia làm tám phần cho tám vị quốc vương. Vương quốc Ramagrama cũng được một phần trong số ấy và đem về lập tháp thờ tại Devadaha.
Huyền thoại kể rằng khi Đại đế Ashoka  xây dựng 84.000 bảo tháp thờ Phật, ông đã cho khai quật các ngôi tháp của các vương quốc được phân chia xá lợi Phật đầu tiên để lấy xá lợi chia lại cho 84.000 bảo tháp mới. Ông đã khai mở hết bảy tháp. Tháp cuối cùng là tháp thờ xá lợi Phật của vương quốc Ramagrama. Khi ông đến tháp ấy có một con rắn khổng lồ nằm cuộn tròn quanh bảo tháp. Đó là Thần Rắn Naga. Sau đó thần rắn biến thành hình người và mời Đại đế Ashoka xuống thăm cung điện của Naga dưới đáy hồ bên cạnh bảo tháp. Sau khi tiếp đãi hoàng đế theo nghi lễ, Naga trình bày cho hoàng đế thấy những vật dụng thần thánh mà Naga dùng hàng ngày để cúng dường xá lợi Phật cầu mong tiêu trừ nghiệp chướng. Rắn thần chấp nhận cho hoàng đế khai mở bảo tháp để lấy xá lợi với điều kiện phải cúng dường hàng ngày tốt hơn Naga đã làm. Ashoka nghĩ rằng không thể làm hơn những gì Naga đã làm nên vui vẻ bỏ qua ý định khai mở bảo tháp lấy xá lợi.
Bộ Đại sử của Sri Lanka (Mahavamsa) lại kể rằng ngôi tháp Ramagrama nằm bên bờ một con sông và đã bị nước xoáy phá hủy. Chiếc bình đựng xá lợi Phật bị cuốn trôi ra biển. Nó được thần Rắn Naga tìm thấy và thờ phụng trong một ngôi bảo tháp. Vào thời vua Dutthagamini (161-137 trước Tây lịch), chiếc bình đựng xá lợi Ramagrama đã được vị Thánh Tăng Sonuttara dùng thần thông thu được và đưa về thờ phụng ở Mahathupo tại Sri Lanka(?).
“Nước Lam Ma bây giờ đã hoang phế không còn dấu vết gì, thành ấp đã đổ nát xiêu vẹo, người dân thưa thớt. Thành xưa ở phía Đông Nam có một bảo tháp lợp ngói cao gần 100m. Ngày xưa, sau khi Đức Như Lai nhập diệt, vua của nước này đến phân chia xá lợi mang về nước của mình rồi ra sức tôn tạo kiến thiết nên. Đây là nơi rất linh thiêng, có ánh sáng phát ra từ tháp. Bên cạnh bảo tháp có một ao nước trong có một con rồng cư trú nơi đó. Mỗi lần con rồng ra đi nó biến thành con rắn. Phía bên phải cũng có một bảo tháp" (Đại  Đường Tây Vực ký - Huyền Trang).
Đó là mô tả của ngài Huyền Trang khi ngài đến chiêm bái vương quốc Ramagrama vào thế kỷ thứ VII sau Tây lịch.  Cả hai ngài Pháp Hiển (thế kỷ thứ V) và Huyền Trang đều thấy được ngôi tháp Ramagrama còn tồn tại.
Năm 1898, Tiến sĩ Hoey căn cứ theo kinh sách đã tìm lại được kinh thành Devadaha. Nó nằm ở chân núi Terai, phía Tây Nepal. Năm 1964, Tiến sĩ S.B Deo xác định được vị trí tháp Ramagrama bên bờ sông Jharai. Nơi đó có một gò đất cao chừng 9m và đường kính chân gò là 21m, với chân móng bằng gạch nung. Các học giả và nhà khảo cổ đã đo đạc và so sánh những khoảng cách đã được nêu trong các tài liệu của các ngài Pháp Hiển và Huyền Trang và công nhận tính chính xác của các nghiên  cứu của Tiến sĩ S.B Deo.
Ngày nay, khách hành hương muốn viếng thăm Ramagrama và quê ngoại của Đức Phật thật dễ dàng. Nếu xuất phát từ Lumbini, chúng ta sẽ đi đến Bhairahawa 25km, từ đây chúng ta đi tiếp 25km nữa đến thành phố Butwan. Đây là một thành phố lớn ở miền Tây Nepal, nằm vắt ngang quốc lộ Mahendra. Tại Butwan chúng ta theo đại lộ Mahendra về hướng Đông (hướng về thủ đô Kathmandu)  chừng 10km, bên tay phải có một con đường rải đá dăm dẫn đến Devadaha kinh đô của Koliya và dòng sông Rohini nổi tiếng. Nếu theo quốc lộ đi quá lên chừng 10km nữa, chúng ta gặp một đường nhựa nhỏ dẫn đến thị trấn Parasi, tháp Ramagrama ở gần ngay đó. Tuy có nhiều huyền thoại quanh nó nhưng người ta vẫn tin rằng 1/8 xá lợi của Đức Phật vẫn còn trong ngôi tháp ấy và vẫn đến cúng dường thật thành kính.
Tại cổng chào của Devdaha (Devadaha), chính quyền địa phương đã cho xây dựng một công viên nhỏ. Trong công viên có tôn tượng của Đức Phật Thích Ca cao chừng 2m, và lùi sau lưng Ngài một chút là tôn tượng của ngài Sariputa (Xá Lợi Phất). Devdaha có một tinh xá thờ ngài Mayadevi và Prajapati. Tuy nhiên dân chúng địa phương theo Hindu giáo đã đồng hóa các vị với nữ thần Barimalika Devi, người được thờ phụng khắp từ Kashmir đến sông Hằng. Họ gọi hai vị là Bairimai và Kanyamai. Trong tinh xá có hai tượng đá của hai vị. Tượng này đã bị hư hỏng khá nhiều. Đến đây tôi mới khẳng định được rằng tinh xá trong cổ thành Kapilavastu  chính là tinh xá thờ  Đức bà Mayadevi mà ngài Huyền Trang đã kể. Nằm cách 1km về phía Nam tinh xá thờ Đức Mayadevi và Pajaprati là kinh đô cổ Devadaha. Nơi đây còn một trụ đá đánh dấu do Đại đế Ashoka đặt vào năm 249 trước Tây lịch, tương tự như trụ đá ở Lumbini. Cũng giống như trụ đá ở Lumbini và Kapilavastu, trụ đá Devadaha cũng đã gãy đổ. Phần gốc nhô lên chừng tám tấc, phần trang trí đầu trụ đã mất, phần thân vỡ nhiều mảnh.Trụ đá này là một trong những chứng cứ  quan trọng để các nhà khảo cổ xác định vị trí kinh đô Devadaha cổ đại. Những dòng chữ do Đại đế cho khắc trên trụ đá nói rằng đây là nơi sinh của Mẹ của Đức Phật. Tôi được cho xem bản dịch tiếng Anh của những dòng chữ ấy, sơ lược như sau: Đức vua Piyadasi (Ashoka), người được chư thần yêu quý, vào năm thứ 20 trong triều đại của ngài đã đến thăm viếng Devadaha và bày tỏ lòng kính trọng. Bởi vì đây là nơi sinh của mẹ Đức Phật nên Hoàng đế giảm thuế cho làng Devadaha xuống chỉ còn 1/8.
Từ cổng chào của Devdaha về hướng Nam chừng vài km, giữa cánh đồng có một cây đại thụ hùng vĩ. Từ xa đã thấy sắc xanh đặc biệt của lá cây. Cây cao chừng 30m, tỏa bóng mát che rợp chu vi  đường kính 40m. Cành xõa ra từ sát mặt đất. Không ai dám chặt một cành nào của cây ấy vì đây chính là cây thần Kolan và tôn kính gọi đó là "Kotiyamai”. Từ xa xưa, kên kên, đại bàng và voi cũng không dám đến gần cây thần này. Vua Rama và hoàng hậu Priya đã được chữa khỏi bệnh dưới một cây Kolan và tên cây đã thành tên vương quốc của họ. Không ai dám chắc rằng cây Kolan ngày nay có phải là cây Kolan trong huyền thoại hay không nhưng tận đáy lòng tôi tin trong những chiếc lá xanh kia có chứa tứ đại của cây thần Kolan huyền thoại. 
Rời cây thần Kolan, chúng tôi đến chiêm bái tháp Ramagrama. Chúng tôi thắp hương rồi nhiễu quanh tháp chín vòng và niệm danh hiệu Đức Thế Tôn. Tuy chỉ là một gò đất nhưng nơi này là một trong những nơi thiêng liêng nhất của Nepal vì chứa đựng 1/8 xá lợi Phật. Chính các nhà khảo cổ  hiện nay cũng không dám khai mở tháp Ramagrama. Hồ Naga cạnh tháp đã cạn khô có lẽ Thần rắn Naga đã tái sinh kiếp khác hay do công đức cúng dường xá lợi nên đã về cõi vô ưu.
Câu chuyện về dòng họ Shakya của Đức Phật chưa dừng ở thời điểm Vidudhaba hủy diệt kinh thành Kapilavastu và tàn sát tất cả người mang họ Shakya. Một số vương tử đã trốn thoát; một số chạy về Piprava dựng nên kinh đô Kapilavastu mới. Một số đi đến các vương quốc vùng Himalaya và làm vua ở đó. Trong số này, có một nhóm đã dựng nên một thành phố mới gọi là Moriyanagara, nơi họ đã nghe tiếng gáy vang của những con công. Đó là bắt đầu cho một dòng họ mới khai sáng ra triều đại Moriya huy hoàng mà người thứ ba của triều đại trở thành vị  Chuyển luân vương vĩ đại nhất trong lịch sử Ấn Độ: Đại đế Ashoka.
Được biết xa lộ cao tốc Xuyên Á (điểm cuối là TP.HCM - Việt Nam) có một đoạn đi ngang qua Nepal. Đoạn ấy nối vào Quốc lộ Mahendra và ngang qua Butwan. Hy vọng rồi đây khi xa lộ hoàn thành, người Việt Nam có thể đi bằng đường bộ vượt 3.000km đến thăm quê hương Đức Phật để cúng dường những di tích thiêng liêng và xá lợi của Đức Từ Phụ.


(Bài viết có tham khảo tư liệu của  Giáo sư Babu Krishna Rijal - Cục Khảo cổ Vương quốc Nepal, sách của các học giả Hermann Oldenberg,  H.W. Schumann, Từ điển Pali Proper Name, Hồi ký của các ngài Pháp Hiển - Huyền Trang và gia phả của họ Shakya tại Kathmandu).
NGUYỄN PHÚ

 

CHUYÊN ĐỀ LỊCH SỬ NEPAL: HỌ THÍCH-CA Ở KATHMANDU

Quý bạn đọc thân mến,
Cách đây hơn mười năm một "tiếng gọi" (the call) từ Himalaya đã vọng đến tác giả vào một buổi sáng tháng Giêng trong hình thức một làn hơi lạnh giá. Sau đó tác giả đã quyết định lên đường một cách trừu tượng mà không hề biết mình sẽ bắt đầu từ đâu và đi đến đâu. Để chuẩn bị cho chuyến đi này, tác giả đã soạn ra cả một danh sách dài những việc cần làm trong đó có cả việc học những kỹ năng viết lách, quay phim, chụp ảnh... và đã tiêu tốn bốn năm trời dành dụm tiền bạc và học hỏi mọi thứ (kể cả làm phóng viên cho một đài truyền hình để học kỹ năng, nghiệp vụ). Cuối năm 2005, tác giả đặt chân đến Nepal (Kathmandu và Lumbini) một cách bất ngờ không hề có sự chuẩn bị trước trong một chuyến đi độc hành nửa hành hương nửa để cầu siêu cho người mẹ vừa quá cố của mình. Tại đây tác giả đã nhận chân ra "tiếng gọi" vang vọng đến mình 5 năm trước, và chọn xứ sở này làm quê hương thứ hai. "Tiếng gọi" ấy đã tặng cho tác giả một chủ đề nghiên cứu cả đời (life time's subject): The Sakya (Họ Thích-ca).
  Sau 7 năm nghiên cứu, tác giả xin đưa lên đây những thu thập ít ỏi bước đầu của mình về một chủ đề có quá ít người tìm hiểu. Mong các bài viết này nhận được sự quan tâm của các bạn!
  Trân trọng,
  Nguyễn Phú

******************************************************
HỌ SHAKYA Ở KATHMANDU: PHẦN 1

Họ Thích-ca thuộc 18 bahal (tự viện) khắp Kathmandu tập trung cầu nguyện hàng tháng

Kathmandu Valley (Thung Lũng Kathmandu), thủ đô hiện tại của nước Nepal, vốn là một vương quốc nhỏ trong vùng Himalaya với tên gọi từ thời cổ đại (hơn 500 năm trước Công Nguyên) là Nepal-Mandala. Tên Nepal-Mandala bắt nguồn từ vị trí địa lý của thung lũng này với những dãy núi bao quanh giống như những cánh hoa sen trong một đồ hình mandala.
  Rất nhiều người biết đến chi tiết Kathmandu Valley là một mandala, nhưng không mấy người biết đấy là mandala gì... vì Mật tông Hindu và Mật tông Phật giáo có đến hàng vạn mandala. Câu chuyện về Mandala của Kathmandu xin bàn vào một dịp khác.
  Kathmandu Valley chính là nơi cư trú được chính thức ghi nhận của hậu duệ cộng đồng Sakya-Tộc họ đã sản sinh ra một trong những nhân vật nổi tiếng nhất lịch sử thế giới: Sakya Buddha (Đức Phật Thích-ca).
Sakya là viết theo tiếng Sanskrit hoặc Pali; Shakya là theo tiếng Newari-ngôn ngữ cổ đại của người bản địa Kathmandu Valley, cũng từ này phiên âm theo tiếng Hán là Thích-ca. Kể từ đây tác giả xin được phép dùng từ Sakya hoặc Shakya để dễ dàng cho bạn đọc khi tra cứu hay tìm kiếm về tộc họ này tại Kathmandu Valley hay từ các nguồn khác với nguồn Hán-Việt (điều này phát xuất từ kinh nghiệm thực tế của tác giả vì ngoài người Việt ra, chẳng một ai biết đến họ Thích-ca! Cũng như dùng các danh từ riêng theo tiếng nước ngoài không phải vì tác giả sính dùng ngoại ngữ).

  Nguồn gốc của tộc họ Shakya tại Kathmandu có thể truy nguyên về đến tận thời Sakya Buddha còn tại thế. Khi ấy vua Vidudabha của vương quốc láng giềng hùng mạnh Kosala đã tận diệt họ Sakya tại Kapilavastu (thành Ca-tỳ-la-vệ). Tộc họ Sakya mất nước đã phải lưu vong, tản mác khắp bốn phương trời. Một nhóm Sakya đã theo những con đường mòn của giới thương buôn vượt qua dãy núi Terai tìm đến Kathmandu Valley. Tại đây, một hoàng tử Sakya đã kết hôn với công chúa của vua địa phương tộc họ Kirat (tộc họ này thuộc sắc dân Naga sống trải dài từ Himalaya đến tận Việt Nam; người Việt là một nhánh của Naga di cư từ Himalaya- xin viết về chủ đề này trong một bài khác). Cộng đồng Sakya của Kathmandu Valley bắt đầu định cư và định hình, cũng như có ảnh hưởng quan trọng đến lịch sử Kathmandu suốt 2.500 năm nay.
  Cộng đồng Sakya lâu đời nhất thuộc về Chabahil. Theo ngôn ngữ Newari, bahil hay bahal tương đương với vihara của Sanskrit. Tuy nhiên, bahil hay bahal không phải một ngôi chùa hay tu viện (pagoda, monastery) dành cho giới tăng-ni như Phật giáo Bắc tông hoặc Nam tông. Nó là một kiến trúc khép kín với 4 dãy nhà xoay mặt vào một cái sân, trung tâm là một stupa (bảo tháp). 
Mô hình một Bahil
Bahal thì có quy mô lớn với các dãy nhà của tộc họ Shakya bao quanh ba cánh và một cánh dành cho ngôi chùa của họ. Bahil thì quy mô nhỏ hơn, hầu như gói gọn vào một ngôi chùa. Đúng nghĩa, bahil hay bahal là một ngôi nhà sinh hoạt chung của họ Shakya. Họ tụ tập tại đây để cầu nguyện, cúng dường, làm Phật sự hay chỉ đơn giản là sinh hoạt cộng đồng. Bahil và Bahal cũng có tăng ni cư trú để tu tập nhưng họ Sakya không có khái niệm "sư-ni trụ trì". Cho đến ngày nay (thế kỷ 21) họ Shakya vẫn duy trì truyền thống dân chủ cộng hòa của vương quốc Sakya xa xưa ở Kapilavastu. Mỗi cộng đồng có một vị thủ lĩnh (thường là vị cao niên nhất hoặc có uy tín nhất) gọi là Thakali. Thakali sẽ chủ trì các buổi cầu nguyện, cũng như các buổi họp cộng đồng trong đó quyết định sẽ cuối cùng tuân theo nguyên tắc đa số. 
Aarta Man Shakya-Thakali hiện tại của toàn bộ Shakya ở Kathmandu Valley

  Theo lịch sử Kathmandu, có 18 bahal thuộc họ Shakya được xem là chánh tông. Vấn đề chánh tông này xuất phát từ hơn 1000 năm trước, khi các vua trị vì Kathmandu Valley lập ra hệ thống Jati (caste theo tiếng Anh). Thực ra nếu dịch Jati /caste thành từ "đẳng cấp" hoặc "giai cấp" trong tiếng Việt thì chưa chính xác. Jati là hệ thống phân biệt nghề nghiệp; những nghề nào xã hội cần hơn, hàm chứa nhiều chất xám hơn thì được đánh giá cao hơn những nghề làm lụng tay chân hay nghề làm những việc thấp hèn. Trong hệ thống ấy, một số người theo Phật giáo của Kathmandu Valley được xếp vào họ Shakya-nghĩa là người theo đạo Shakya Buddha (giống như pháp danh với họ Thích của Phật giáo Bắc tông). Sự kiện này cùng với việc các bahil và bahal được xây dựng ngày một nhiều (trong đó có một số bahil, bahal không thuộc họ Shakya) đã dẫn đến việc họ Shakya thống nhất nhìn nhận trong toàn Kathmandu Valley chỉ có 18 bahal-bahil chánh tông. Và người của 18 bahl-bahil này mới thuộc họ Sakya chánh gốc.

12 tháng 12, 2012

LUMBINI-MÙA SẾU VỀ LÀM TỔ

Cập nhật-Trả lời vắn tắt một số bạn đọc: Sếu đầu đỏ (Sarus Crane) là loài chim đặc hữu ở Lumbini quê hương của 3 vị Phật Sakya, Kanaka Muni và Krakuchanan. Chúng đã sống ở đây hàng nghìn năm (hình khắc trên cột đá Asoka từ năm 250 trước Thiên chúa giáng sinh). Không phải mới về sống ở Lumbini kể từ khi ông Huyền Diệu đến vùng này sau năm 1993 như ông ta kể trong tự truyện "Khi hồng hạc bay về". Chính phủ Nepal, Quỹ Bảo vệ động vật hoang dã và Hội Sếu Quốc tế đều có các dự án bảo tồn loài chim quý này từ trước năm 1993.
                                                               9h 13/12/12 - NP
 .........................................................................................................................................................
 Ngỏ: nhân có bạn đọc nhắc đến SẾU ĐẦU ĐỎ, xin post lại đây entry cũ với hình ảnh đã được cập nhật từ các chuyến đi làm phim tài liệu của mình cho Quỹ Bảo Vệ Động Vật Hoang Dã về SẾU ĐẦU ĐỎ ở LUMBINI các năm 2011-2012. Bài này đã được Báo Giác Ngộ đăng năm 2010.
  Vì dung lượng lưu trữ có hạn nên mình không post lên đây đoạn phim "độc" mình quay điệu luân vũ lãng mạn của một đôi sếu. Bạn nào thích, xin liên hệ với mình qua Email: phunepal@gmail.com mình sẽ gửi tặng.

..."Người ta thường nghĩ rằng gọi loài chim Sarus Crane này là sếu nghe có vẻ quê mùa và gọi chúng là “hạc” thì sang hơn, tôn quý hơn. Thật ra hạc là một từ Hán Việt được người Hán dùng chỉ "con cò", còn sếu là từ thuần Việt. Chưa chắc “hạc” đã hơn “sếu”, mà nói đúng ra, “sếu” còn tôn quý hơn, xưa hơn và chính xác hơn “hạc” .Tên “sarus” xuất xứ từ “sarasa” của Sanskrit nghĩa là “loài chim ở hồ”.  Từ “sarasa” này vay mượn từ ngữ căn “sar” của hệ ngôn ngữ Austro-Asiatic (ngôn ngữ của người Naga chủ nhân đầu tiên của Lục Địa Ấn Độ và cũng là ngôn ngữ của tổ tiên người Việt cổ). Theo tên gọi này, tên Việt nôm na của chúng: “sếu” (theo hệ ngôn ngữ Austro-Asiatic) là chính xác và cổ xưa hơn từ “hạc” có lẽ đến vài ngàn năm. "




Thu đã về ở Lumbini. Mỗi buổi sáng ở đây tôi lại được đánh thức bởi bản hoà tấu của các lòai chim. Thoạt tiên văng vẳng từ xa đến gần là tiếng gọi giông giống như “Đến đây bái Phật - Đến đây bái Phật” (chim “bắt cô trói cột” của vùng rừng miền Đông Nam bộ). Rồi đến tiếng solo thanh thoát của những chú chim chìa vôi trên nền trầm của tiếng gáy cu cườm. Rồi không gian vỡ oà bởi cơ man nào tiếng của muôn chim.
Ngoài kia, những cánh đồng lúa xanh mướt mênh mông bát ngát kéo dài đến tận chân trời được viền bởi bóng tím sẫm của dãy Terai. Bồng bềnh bên trên dãy núi ấy là những chỏm tuyết trắng của Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ. Và trùm lên tất cả là bầu trời xanh ngăn ngắt không một bóng mây. Không khí tinh khiết đến mức có thể nghe được sương đêm thoang thoảng bay lên trong nắng sớm khi mấy con nai vàng dẫm khẽ khàng lên những lá cỏ như sợ làm phiền buổi tọa thiền sáng sớm của những bậc chân tu. Nắng lấp lánh trên mình nai, chúng đưa đôi mắt nâu to dịu dàng nhìn bóng những ngôi chùa thấp thoáng qua rặng cây rồi lặng lẽ đi vào khu đồng cỏ.
Đồng cỏ với những khoảng nước ngập sau mùa mưa, gió chờn vờn trên những chùm hoa cỏ trắng xoá. Nơi đây Thu cũng đã kịp gọi sếu về làm tổ.  

Đôi sếu đang tìm về tổ cũ

Người ta thường nghĩ rằng gọi loài chim Sarus Crane này là sếu nghe có vẻ quê mùa và gọi chúng là “hạc” thì sang hơn, tôn quý hơn. Thật ra hạc là một từ Hán Việt, còn sếu là từ thuần Việt. Chưa chắc “hạc” đã hơn “sếu”, mà nói đúng ra, “sếu” còn tôn quý hơn, xưa hơn và chính xác hơn “hạc” .Tên “sarus” xuất xứ từ “sarasa” của Sanskrit nghĩa là “loài chim ở hồ”.  Từ “sarasa” này vay mượn từ ngữ căn “sar” của hệ ngôn ngữ Austro-Asiatic (ngôn ngữ của người Naga chủ nhân đầu tiên của Lục Địa Ấn Độ và cũng là ngôn ngữ của tổ tiên người Việt cổ). Theo tên gọi này, tên Việt nôm na của chúng: “sếu” (theo hệ ngôn ngữ Austro-Asiatic) là chính xác và cổ xưa hơn từ “hạc” có lẽ đến vài ngàn năm.    
Một số sách lịch sử Phật giáo khi phiên dịch ra tiếng Việt từ nguồn Hán tạng có kể câu chuyện Đức Phật Thích Ca và chim thiên nga. Theo đó thì khi còn là một thiếu niên, một hôm trong vườn ngự uyển, hoàng tử Siddartha bắt gặp một con thiên nga bị thương bởi một mũi tên của Devadatta. Siddartha nhổ mũi tên ra và cứu chữa cho chú chim tội nghiệp. Nhưng Devadatta khi phát hiện được đã lên tiếng đòi con chim do mình bắn được. Cả hai không ai chịu ai và đi đến tranh cãi gay gắt. Theo truyền thống dân chủ cộng hòa của gia tộc Sakya, vụ việc được đưa ra Mote Hall ( Nhà hội nghị, như Quốc hội ngày nay) cho cả hai trình bày lý lẽ của mình và để toàn bộ các thành viên nam của gia tộc phán quyết. Siddartha đã được quyền giữ chú chim kia khi lý luận rằng “Sinh mạng con chim thuộc về người cứu nó chứ không phải về kẻ tước đoạt nó!”



Hình chim sếu trên trụ đá Asoka ở Niglihawa – quê hương của Đức Phật Kanaka Muni, gần kinh thành Kapilavastu
Theo học giả Hemraj Shakya, người tinh thông các ngôn ngữ cổ như Brahmi, Sanskrit, Pali – cây đại thụ uy tín trong giới nghiên cứu về lịch sử và văn hoá cổ đại của Ấn Độ và Nepal, thiên nga hoặc ngỗng trời ở vùng này không có, mà con chim trong câu chuyện trên chính là chim sếu, một loài chim đặc hữu của quê hương Đức Phật Thích ca. Theo các nhà khoa học, loài sếu này phân bố khắp miền Bắc Ấn; tuy nhiên ở Nepal chúng chỉ sinh sống ở Kapilavastu (quê cha của Đức Phật) và khu vực xung quanh Lumbini. Vùng này ngoài Đức Phật Thích Ca còn là quê hương của hai vị Phật trong quá khứ là Kanaka Muni và Krakuchanan, cả hai nơi đều được Đại Đế Asoka dựng cột đá đánh dấu. Không phải ngẫu nhiên mà chim sếu được khắc trên trụ đá ở Niglihawa, theo khám phá của riêng tôi, đây là trụ đá Asoka duy nhất được khắc hình ảnh động vật-một cách thức tôn vinh loài chim thiêng ở quê hương các Đức Phật của Asoka. Chính xác thay các kinh sách cổ khi nói rằng chim sếu tụ hội nơi có thánh nhân.



Tác giả trong một chuyến đi thực địa khảo sát về chim khắp Nepal năm 2005

Tác giả đang quay phim tài liệu về sếu năm 2011


Nepal là một thiên đường cho chim và những người yêu quý chim muông. Xứ sở này có khoảng 900 chủng loại chim, chiếm 8% chủng loại chim của thế giới. Chín chủng loại được đưa vào danh sách bảo tồn của Chính phủ Nepal bao gồm sếu, cò trắng, và cò nâu. Xứ này có luật bất thành văn rằng mọi người phải yêu quý muông thú không giết hoặc ăn thịt chim hoang dã, mà thật ra cũng không cần luật vì nó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người và được nhắc nhở giáo dục thường xuyên trong tất cả mọi cấp lớp của trường học. Vì thế, ngay cả ở nơi trung tâm đô thị như thủ đô Kathmandu người ta vẫn có thể nhìn thấy hàng đàn cò trắng, cò nâu đậu dày đặc theo các bờ sông hay làm tổ trên các cây cổ thụ.
Vùng Lumbini (Lumbini Zone) là phần mở rộng của Đồng bằng sông Hằng với một số con sông nhỏ, trong đó nổi tiếng nhất trong lịch sử Phật giáo là con sông Dầu (Telar Khola) đã được Ngài Huyền Trang mô tả trong hồi ký “Tây Du Ký” (không phải tiểu thuyết Tây Du ký của Ngô Thừa Ân). Vùng Lumbini rộng khoảng 140.000 ha, cao độ từ 95m đến 1200m trên mực nước biển. Khí hậu bán nhiệt đới, với mùa nóng dài hơn mùa lạnh và có bốn mùa: xuân, hè, thu (mưa) và đông. Nhiệt độ vào mùa hè thường trên 30º C có thể lên đến 38-39 và  mùa đông rơi xuống trên dưới 15º C. Mùa mưa từ tháng 6,7, 8 và có thể kéo dài sang cả 9-10. Vào mùa thu thì ngày ấm và đêm lạnh.Tổng diện tích đất do con người sử dụng chiếm đến 68% (cư trú và canh tác). Đồng cỏ chiếm 6% diện tích đất dọc theo bờ sông và trong khu bảo tồn Lumbini, đấy chính là nơi sếu làm tổ và kiếm thức ăn chính. Con sông Dầu chảy xuyên qua khu vực bảo tồn Lumbini và vùng đất ngập nước do nó tạo nên trong khu vực Lumbini được quy hoạch thành khu bảo tồn sếu của Nepal.
Sarus Crane hay sếu đầu đỏ của vùng này cùng một chủng loại với sếu đầu đỏ ở vùng Đồng Tháp Mười của Việt Nam. Đây là loài sếu cao nhất, khi đứng thẳng từ chân lên đến đỉnh đầu vào khoảng 2m, sãi cánh khi dang ra hết cỡ rộng đến 2,5m. Sếu trưởng thành nặng từ 7-10kg, toàn thân phủ một lớp lông xám nhạt, ở đỉnh đầu không lông với da mịn mướt màu xanh ve chai, toàn bộ lông đầu và phần trên của cổ màu đỏ huyết dụ. Chân có màu đỏ nhạt. Chim mái thường nhỏ hơn chim trống chút ít. Chim non có bộ lông tơ vàng ánh trên đầu và thân mình sậm hơn màu nâu quế.
Sếu đầu đỏ là loài chim không thiên di, chỉ di chuyển giữa các vùng thức ăn vào thời gian chuyển tiếp giữa mùa khô và mùa mưa. Chúng là loài chim thân thiện với con người đến mức gần như không sợ người, kể cả nơi có mật độ dân cư cao như vùng Bắc Ấn. Tuy nhiên cũng phải nói thêm rằng điều này vì địa phương này có truyền thống “chung sống hòa bình” giữa các giống loài trải qua vài ngàn năm. Tuổi thọ một con sếu có lẽ lên đến nửa thế kỷ (người ta đã thấy một con sếu được nuôi từ nhỏ với người sống đến hơn 40 năm). Ở Ấn độ và Nepal, sếu được coi là chim thiêng và không bao giờ xâm phạm đến chúng. Chim non thì mừng rỡ chạy đến khi người ta vẫy tay, quấn quýt với người cho chúng ăn như những chú cún con. Và cũng như chó, chúng rất hung dữ với người lạ bước vào ngôi nhà của chủ chúng, (thêm một điều buồn cười là chúng rất ghét chó, hễ bất cứ con chó nào lảng vảng trong sân là nó rượt đuối chạy toé khói).



Một con sếu đang giữ nhà cho một người địa phương sau khi nó gãy cánh và được người này cứu chữa và nuôi dưỡng

Môi trường sống của sếu là những cánh đồng nước ngập theo mùa, đồng cỏ, ruộng lúa, hồ nước. Trái với quan niệm ban đầu của chúng tôi rằng sếu là loài “ăn chay”, trong thực tế sếu ăn khá nhiều loại thức ăn, cỏ, cây thủy sinh, rễ, củ, các loại hạt, động vật không xương sống, côn trùng, động vật nhỏ…
Tôi bắt gặp một điều thú vị ở Lumbini. Theo quy hoạch, chính phủ Nepal lập ra làng Đức Phật (Buddha Nagar) để tái định cư những gia đình sinh sống trong khuôn viên Vườn Lumbini. Ở làng này vào mùa Thu, cứ chiều chiều lại có một con sếu hoang đi đến từng nhà để khất thực. Đến trước mỗi cửa nhà, nó dừng lại gật gật đầu mấy cái như chào chủ nhà rồi đứng đợi người ta cho thức ăn. Nó không khất thực duy nhất một nhà mà mỗi nhà chỉ ăn chút ít rồi sang nhà khác dọc theo một con đường dài chừng 50m. Tôi thường ngồi uống trà sữa khoảng giữa con đường đó để đợi nó. Nó đến rất đúng giờ, tầm 4 giờ chiều mỗi ngày. Tôi lấy bánh bich-quy đưa cho nó. Sếu khéo léo dùng chiếc mỏ dài gắp từng cái bánh trong tay tôi, đặt xuống đất và dùng mỏ bẻ làm hai miếng rồi mới từ tốn ăn từng miếng; sau đó mới gắp cái bánh khác. Lần nào nó cũng chỉ nhận 5 cái bánh quy rồi thôi. Sau khi ăn xong, sếu cúi đầu chào tôi vài cái rồi mới thong thả đi sang nhà kế bên nhận thức ăn. Không ai biết nó từ đâu tới cũng như bao nhiêu tuổi. Làng này mới thành lập trên dưới 15 năm và từ những năm đầu người ta nói là đã thấy con sếu kia về khất thực.



Tác giả đang tặng thức ăn cho một con sếu hoang đi khất thực hàng ngày trong làng Đức Phật ở Lumbini

Sếu thường được coi như biểu tượng của sự chung thủy, người ta tin rằng chúng kết đôi với nhau một lần cho suốt cuộc đời, và nếu một trong hai mất đi, con còn lại sẽ nhịn ăn đến chết.


Điệu luân vũ của những đôi sếu mùa yêu đương

Khi vào mùa làm tổ, sếu bắt cặp và  biểu diễn những điệu luân vũ kèm theo bản hợp ca ngập tràn hạnh phúc. Tiếng hoan ca của chúng là một tràng những âm thanh phức hợp, hoà điệu lần lượt giữa tiếng chim trống và chim mái. Cứ mỗi tiếng gáy của chim trống thì chim mái gáy theo hai tiếng ngắn. Cả hai vươn người trong một tư thế hoàn mỹ, đầu ưỡn về sau, mỏ há vươn lên bầu trời như muốn gửi thông điệp yêu thương tới toàn vũ trụ. Rồi chim trống vươn xoè cánh lên cao trong khi chim mái thì xếp cánh yểu điệu duyên dáng bọc lấy thân mình để múa “Vũ điệu kết đôi”. Đôi sếu lướt trên cỏ như những vũ công ballet rồi rung lắc thân mình như những vũ nữ múa bụng, rồi cúi chào nhau, rồi bay bỗng lên không trung, rồi nhặt những cọng cỏ ném yêu vào nhau, rồi vỗ cánh hân hoan...kéo dài hàng vài chục phút... Đó là cảnh tượng thiên nhiên kỳ thú nhất mà tôi từng được chứng kiến, khi có hàng vài chục đôi sếu cùng múa ca trong một buổi hoàng hôn mùa thu.
Vào khoảng tháng bảy-tám sếu bắt đầu làm tổ. Tổ chim sếu làm bằng các loại cây cỏ của vùng nước ngập, kể cả lúa. Sau khi chọn nơi làm tổ (các đôi sếu cũ thường làm tổ ở ngay chính cái tổ của năm trước), giữa một vùng ngập nước đến gần đầu gối, cặp sếu bắt đầu dùng mỏ nhổ quang quẽ cỏ, sậy, lúa xung quanh một diện tích 5-6 mét vuông và chất thành một gò nhỏ đường kính khoảng gần 2m. Khi làm tổ, cặp sếu đi theo chiều kim đồng hồ, nhổ và quăng thật chính xác các cây cỏ vào nơi làm tổ. Cứ kết thúc một vòng thì chim trống lại leo lên dẫm cho đống cây cỏ nén xuống thật chặt. Nhìn từ xa tổ sếu giống như một cù lao nhỏ nhô lên khỏi mặt nước 50-60cm trên đỉnh hơi lõm xuống. Sếu làm tổ giữa mặt nước như vậy có lẽ nhờ nước để điều hoà nhiệt độ, mát vào giữa trưa và ấm vào ban đêm. Và cũng có nguyên nhân nữa là để phòng tránh các thiên địch của trứng và chim con như: chồn, cáo, chuột, rắn…



Một đôi sếu bắt đầu làm tổ
Không một nông dân nào phàn nàn khi sếu nhổ trụi một khoảng lúa 4, 5 mét vuông trên ruộng của họ để làm tổ, trái lại còn vui mừng khi thấy sếu chọn ruộng của họ để làm tổ. Theo họ đó là một điềm lành, sếu sẽ mang lại may mắn và no ấm cho gia đình họ trong năm kế tiếp. Vì thế không có chuyện phá tổ sếu hoặc xua đuổi sếu. Điều này ngoài tín ngưỡng cổ xưa của vùng này là tôn kính sếu, còn có một tình yêu thương lẫn nhau giữa sếu và người. Chim mái thường đẻ hai trứng rất cân bằng âm dương, một sẽ là trống và một là mái. Trứng chim được ấp trong vòng 30 đến 35 ngày. Chim trống thường đi vòng quanh để bảo vệ cho tổ trong khi chim mái ấp và ấp thay chim mái khi con này đi ăn. Khi trời nắng chúng dùng mỏ đảo trứng để sức nóng toả đều quả trứng. Trứng chim chiều rộng có đường kính khoảng 10 cm, chiều dài khoảng 13cm đường kính trục, nặng khoảng trên dưới 300g, vỏ màu trắng có vân xám nhạt. Ăn trứng và thịt sếu là điều cấm kỵ (taboo) theo tín ngưỡng dân gian toàn vùng, vì thế không bao giờ có việc bất cứ kẻ nào dám ăn thịt hay trứng của loài chim thiêng này, kể cả vào mùa đói kém nhất.


Tổ chim sếu đầu đỏ

Trong thời gian khảo sát thực địa ở Lumbini, tôi đã tiếp cận với các tổ sếu để quan sát và tìm hiểu kết cấu tổ cũng như cân đo trứng sếu. Khi chúng tôi lội qua cánh đồng ngập nước để đến gần tổ của chúng, đôi sếu tỏ vẻ giận dữ chứ không sợ hãi. Chúng chạy vòng quanh ở khoảnh cách 5-6 m, con chim trống giang rộng đôi cánh lên, mỏ há lớn phát ra những âm thanh chói gắt, chim mái thì ở khoảng cách xa hơn nhưng cũng không kém phần kích động. Khi cân đo trứng sếu tôi đã phải rất cẩn thận dùng bao tay phẫu thuật vì sợ trứng ám hơi người sẽ bị đôi sếu mổ thủng bỏ đi.
Người nông dân nghèo khổ này sống trong một cái chòi lá vách đất, quanh năm suốt tháng chỉ quần xà lỏn và quàng tấm khăn như thế này. Đôi sếu đến làm tổ nhổ trụi nửa công ruộng của ông (500m2). Ngày đầu tiên tôi lội vào quay phim, ông đã chặn lại vì sợ tôi... ăn cắp trứng sếu. Các bạn có thể thấy đôi sếu đứng xa xa phía sau ông ta.
Một quả trứng sếu bị ung, nổ tung lúc 12 giờ trưa khi trời quá nóng

Chim sếu ấp trứng
Sau khi ấp trên dưới một tháng thì trứng nở. Vỏ trứng sau khi nở sẽ được chim bố mẹ mang đi quẳng thật xa khỏi tổ. Tập tính của sếu là giữ khu vực xung quanh tổ thật sạch, khi có bất kỳ cọng cỏ cây nào trôi gần đến tổ là nhặt quẳng đi thật xa (phòng chống rắn chăng?). Trong vài ngày đầu, chim non được bố mẹ đút thức ăn, khoảng một tuần tuổi chúng đã có thể theo bố mẹ đi kiếm ăn. Khi có nguy hiểm, chim bố mẹ kêu to báo động một cách đặc biệt, các chú chim con liền đứng im bất động cho đến khi bố mẹ đến gần dùng mỏ dụi dụi lên thân mình báo hết nguy hiểm rồi dẫn chúng đi tiếp.
Đôi sếu đang thảnh thơi ăn bên cạnh những người nông dân quê Phật Lumbini, phía xa là chiếc cày máy ầm ĩ
 Kỷ niệm đặc biệt nhất ở Lumbini của tôi là cứu sống một chim sếu con vào mùa thu 2005. Năm ấy mùa mưa kéo dài hơn thường lệ. Tôi làm một cái chòi dã chiến trên bờ ruộng để quan sát tổ của một đôi sếu. Sau một tháng, chỉ có một trứng nở, trứng còn lại bị ung và bị chim bố mỏ bỏ vứt đi. Chim sếu nở được một tuần thì gặp một cơn mưa lớn. Mưa dầm dề từ suốt từ nửa đêm 19, rạng ngày 20/10/2005. Kèm theo là cơn rét cắt da đột ngột, ở Lumbini đang từ 30 độ bỗng rớt xuống chỉ còn trên dưới 20 độ C. Rét kèm với mưa nên càng thấm. Đây không phải là cơn mưa lớn nhất, nhưng là cơn mưa dai nhất và lượng nước nhiều nhất mà tôi từng gặp ở Lumbini (cuối cùng thì sau đúng ba ngày trời mới tạnh hẳn). Ngày đầu tiên đôi sếu bố mẹ đứng chụm vào nhau che cho chú sếu con không đi kiếm ăn như thường lệ. Ngày thứ hai, đôi lúc một con nháo nhác chạy đi một lúc chắc là tìm thức ăn rồi vội vã quay về đổi chỗ. Vào lúc chập choạng tối ngày thứ ba, chúng tôi nghe tiếng sếu kêu thảm thiết vội vàng đội mưa chạy ra. Đôi sếu đang tất tả bỏ đi. Không thấy chú sếu con một tuần tuổi đi theo. Đoán có chuyện chẳng lành tôi và hai người địa phương giúp việc vội chia ra tìm. Người thì chặn mấy người Nepal đi bắt cá lại, xét giỏ đựng cá, kẻ soi đèn pin kiếm trong từng bụi cỏ. Mãi một lúc sau mới thấy chú sếu con nằm gục trong đám cỏ ven bờ ruộng, lông tơ ướt bẹp, người tím ngắt, mắt đã lờ đờ. Chúng tôi vội vã mang vào nhà của một người địa phương gần đó, thấm khô, rồi sưởi ấm chú bằng bóng đèn tròn. Được một lúc chú thở hắt ra rồi ngáp ngáp. “Sống rồi!” May quá. Một lát sau chú bắt đầu kêu khẽ mấy tiếng. Cả đêm ấy bọn chúng tôi thức trắng trông chừng chú.
Nửa đêm, vợ chồng sếu quay về tìm con, kêu thảm thiết. Tờ mờ sáng, chúng đi lảng vảng quanh ổ kêu than nẫu ruột. Trời vẫn mưa và lạnh quá nên chúng tôi không dám trả con cho chúng ngay. Cứ cách nửa giờ một lần chúng tôi bẻ bich-quy thành mẩu nhỏ mớm cho chú sếu con. Mãi đến chiều trời bớt mưa, chúng tôi mới thả chú sếu con về với bố mẹ. Chúng mừng rỡ ríu rít bên nhau rồi dắt nhau đi khuất trong màn mưa lất phất.




Sếu con được sưởi ấm bằng bóng đèn điện đã hồi tỉnh



Tác giả và chú sếu con được cứu sống.
Thu đã về ở Khu Vườn Thiêng Lumbini. Năm nay nắng gắt chen lẫn những cơn mưa lớn kéo dài. Tôi lại tìm về nơi chốn bình an ấy để lại được ngắm điệu luân vũ yêu thương của đàn sếu, để được tặng thức ăn cho con sếu khất thực và hoà nhập tâm hồn vào không gian huyền diệu của một trong những nơi linh thiêng nhất trên Trái Đất nơi đã đón nhận bước chân đầu tiên của Đức Từ Phụ của chúng ta.
Lumbini, Mùa Sếu 2010
Phật tử Nguyễn Phú



Sếu về bên Chùa Linh Sơn ở Lumbini của Người Việt ở Pháp
BONUS: BÀI NÀY CỦA MÌNH ĐĂNG TRÊN TUỔI TRẺ ONLINE NGÀY 12/09/11
http://tuoitre.vn/Ban-doc/455493/Dung-hoc-thoi-troc-phu-de-an-thu-hoang-da.html
Thứ Hai, 12/09/2011, 11:08 (GMT+7)
Đừng học thói trọc phú để ăn thú hoang dã
TTO - Man rợ, theo tôi chỉ có thể dùng từ như vậy với hành vi tận diệt thiên nhiên này. Đừng ngụy biện là dân nghèo kiếm sống mà phải bắt chim. Và cũng đừng đua đòi theo thói trọc phú tìm kiếm cao lương mỹ vị đặc sản mà ăn tất tần tật muông thú hoang dã.
Bạn có thể tưởng tượng cảnh những đôi chim sếu thảnh thơi đi ăn ngay bên cạnh thửa ruộng có nông dân đang cày bừa (kể cả máy cày cơ giới) mà không hề e ngại (ảnh).
Sếu trên đồng

Các "vua bếp" có bao giờ nổi tiếng với các món ăn man rợ từ động vật hoang dã? Chẳng lẽ các nhà khoa học lại không thể xác định tính dinh dưỡng (nếu có) từ các "món ăn đặc sản" chế biến từ động vật hoang dã? Tất cả chỉ là vấn đề tâm lý của kẻ trọc phú muốn mình hơn tất cả thiên hạ, ngay cả trong việc ăn, bởi vì tiền thừa thãi quá.
Tôi đang sống ở Nepal. Dân xứ này nghèo hơn dân nghèo ở Việt Nam, thế mà không bao giờ có chuyện bắt một con chim trời ăn thịt, đừng nói là tận diệt theo kiểu ở Hà Tĩnh. Tháng rồi tôi đi làm phim tài liệu về sếu đầu đỏ ở quê Đức Phật.
Khi tôi lội vào một khu ruộng để quay hình tổ sếu ngay trong ruộng lúa, người nông dân chủ ruộng thoạt tiên đã ra dấu không cho: "No egg! No egg!" (Không được lấy trứng!) vì tưởng chúng tôi đến lấy trứng chim (ảnh).
Mặc dù khoảnh ruộng gần 1 công đất không thể trồng trọt vì chim sếu làm tổ, thế mà ông nông dân nghèo còn bảo vệ như thế. Sếu còn bình an sống cạnh con người như thế, các loài chim khác thì sống càng thoải mái hơn.
NGUYỄN PHÚ