Hiển thị các bài đăng có nhãn Khảo cứu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Khảo cứu. Hiển thị tất cả bài đăng

31 tháng 1, 2021

Pi - TIỀN ẢO CHO MỌI NGƯỜI – BÀI 1

        Với giá Bitcoin trong vài tuần qua có lúc lên trên 40.000USD/coin thì đào bitcoin bây giờ không khả thi nữa, cũng không còn là chỗ của người amateur, không cần phải nghĩ đến. Các bạn hãy đón trước tương lai bằng cách đào một loại tiền ảo mới là Pi đã sắp kết thúc giai đoạn 1 (đã có hơn 7 triệu người đào và sẽ khoá sổ khi đạt 10 triệu người)



Hãy tạo cho mình một TÀI SẢN KHỔNG LỒ trong tương lai bằng cách đào tiền ảo (crypto- tiền mã hoá) Pi ngay từ bây giờ.

Để bắt đầu đào Pi, bạn hãy tải app Pi Network tại ( Pi Network (minepi.com))và điền họ tên, user name và password tự đặt. Invitation Code là: kalimata6890

 




Màn hình đăng ký





Invitation Code: kalimata6890

QUAN TRỌNG: SAU KHI ĐĂNG KÝ VÀ BẮT ĐẦU ĐÀO Pi TRÊN ĐIỆN THOẠI CỦA BẠN THÌ ĐỪNG BAO GIỜ SIGN OUT, NẾU KHÔNG BẠN SẼ BỊ MẤT TẤT CẢ SỐ TIỀN ẢO Pi ĐÃ ĐÀO ĐƯỢC!

6 tháng 4, 2019

TIỀN NHIỀU ĐỂ LÀM GÌ?


  SỰ THỜ PHƯỢNG THẦN TÀI DZAMBALA TRONG PHẬT GIÁO
 (Triết lý về sự giàu có của PHẬT GIÁO Tây Tạng)
Thuở xưa, khu vực cội bồ đề thiêng, nơi Đức Phật Thích Ca thành đạo vẫn còn hoang vắng, chuyện kể rằng Đại sư Atisha đang tản bộ trong Bồ-đề-đạo-tràng thì gặp một ông lão sắp chết đói. Ngài Atisha rất buồn cho thảm cảnh  của ông lão; không có chút thức ăn nào để bố thí cho ông lão, nên Ngài đã cắt thịt của mình để cho ông lão.
“Làm sao tôi có thể ăn thịt của một vị tăng?” Ông lão từ chối ăn thịt Ngài.
 Đại sư Atisha nằm xuống, cảm thấy một nỗi buồn và bất lực thì  một luồng sáng trắng đột nhiên xuất hiện trước ngài. Đó là Đức Quán Thế Âm nghìn tay, Ngài nói với Atisha, “Ta sẽ hóa thân thành Dzambala, một vị Phật của sự giàu có để cứu khổ chúng sinh. Ta sẽ làm dịu bớt sự nghèo khổ của họ để họ sẽ không bị phân tâm khỏi sự thực hành lòng từ.”
Ai cũng muốn có tiền! Như mọi người biết, khi một ai đó giàu, thật dễ dàng để không ích kỷ và phát triển lòng bao dung. Bởi vậy, mục đích sùng mộ hay hành trì theo Dzambala là để loại trừ những nỗi bất an, lo lắng về tiền bạc để không bị phân tâm bởi sự nghèo khổ và thiếu thốn về tài chính mà tập trung cho sự trưởng dưỡng lòng Từ Tâm, Thanh tịnh Thân Tâm và hành trì tu tập.
***********
HÌNH TƯỢNG:


https://www.facebook.com/nguyenphunepal/

Màu da vàng kim của Dzambala tượng trưng sự thịnh vượng, tăng trưởng và phát triển: trong ngắn hạn, Ngài có thể mang đến cho chúng ta của cải vật chất và giúp đỡ chúng ta khỏi nghèo túng, nhưng quan trọng hơn, pháp hành trì  hay lòng lòng sùng mộ Ngài có thể mang cho chúng ta sự giàu có tâm linh và phát triển cá nhân để trở thành người hoàn thiện hơn.

4 tháng 4, 2019

PHẬT DƯỢC SƯ (Medicine Buddha – Bhaiṣajyaguru)


https://www.facebook.com/nguyenphunepal/


TƯỢNG PHẬT DỰỢC SƯ (MEDICINE BUDDHA)
do Nghệ nhân PIPENDRA SHAKYA thực hiện
Mạ vàng 24K toàn bộ, Cao 36cm, nặng 5,66 kg


HÌNH TƯỢNG: Hình tượng thông thường chúng ta thấy là tay trái cầm nhánh thuốc, tay phải cầm bình thuốc, thân mặc cà sa, ngồi kết già trên hoa sen, có khi tay trái cầm bát thuốc, tay phải cầm viên thuốc, nhằm để hiển bày lòng từ bi trừ sạch bệnh khổ (tất cả những bệnh tật thân thể bao gồm cả tâm bệnh và nghiệp ác) cứu độ chúng sanh.
 
DANH HIỆU: DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG NHƯ LAI PHẬT
Ý NGHĨA DANH HIỆU:
-DƯỢC SƯ: thầy thuốc hoặc phương thuốc, tượng trưng cho sự trị liệu Thân Bệnh, Tâm Bệnh, Nghiệp Bệnh của chúng sanh.
-LƯU LY QUANG: Ánh sáng rực rỡ có ánh xanh lam như Ngọc Lưu Ly (Lapis Lazuli). Tượng trưng cho sự thanh tịnh của ba Nghiệp: Thân-Khẩu-Ý.
ĐẠI NGUYỆN CỦA PHẬT DƯỢC SƯ: cứu vớt nỗi khổ, trị lành các căn bệnh và giúp cho mong cầu của chúng sanh được thành tựu đầy đủ.

22 tháng 3, 2019

VUI HỘI HOLI (1) : GIỚI THIỆU LỄ HỘI SẮC MÀU ĐÓN XUÂN ẤN ĐỘ


Ở Bắc Ấn Độ lễ hội lâu đời, phổ biến và ấn tượng nhất hàng năm chính là Holi. Lễ hội này thường được người ta gọi bằng cái tên “Lễ hội sắc màu”, năm nay bắt đầu từ ngày 20/03 kéo dài đến ngày 22/03. 



Người ta cho rằng lễ hội Holi này xuất xứ từ vùng Mathura, nay thuộc tiểu bang Uttar Pradesh (Bang Hướng Bắc) của Ấn Độ. Đây chính là quê hương của Thần Krishna, vị thần phổ biến bậc nhất đối với thế giới Hindu Bắc Ấn. Thần Krishna được thờ phụng như là hoá thân của Thần Tối cao Vishnu và là vị thần của lòng từ và tình yêu.











Xuất xứ tên gọi của lễ hội Holi là từ truyền thuyết Thần Vishnu hiển lộ thần thông bảo vệ tín đồ của mình khỏi bị quỷ dữ làm hại và thiêu cháy nữ quỷ Holika. Còn nguồn gốc của phong tục nổi tiếng “xịt nước và bôi màu vào nhau” là từ những trò rắn mắt của chàng thanh niên Krishna khi chòng ghẹo nàng Radha, người sau này trở thành vợ của Krishna. Vốn dĩ Krishna có làn da sẫm màu nên trong lễ hội chàng đã dùng màu và nước màu tung vào người Radha để nàng có cùng “màu da” với mình. Về mặt thời tiết trong năm, ngày diễn ra lễ hội Holi chính là ngày Xuân Phân (năm nay 2019 là 20/03) đánh dấu bắt đầu mùa xuân, chấm dứt những ngày mùa Đông lạnh lẽo nơi xứ Ấn.

KRISHNA VUI HỘI HOLI CÙNG RADHA VÀ BẠN BÈ

5 tháng 10, 2018

MỜI ĐÓN XEM HÀNH TRÌNH "VÒNG QUANH NEPAL MÙA FESTIVAL - 2019"


Các bạn thân mến,

Nhơn dịp Tết Nepal Dashain 2018, Phú Nepal sẽ thực hiện một hành trình bằng mô tô vòng quanh Nepal trong vòng 30 ngày từ Kathmandu đi đến miền Đông Nepal rồi theo xa lộ Đông Tây đến cực Tây Nepal.







Hành trình dự trù dài khoảng 2860 km kéo dài 30 ngày qua hầu hết các tỉnh thành, gặp hầu hết các sắc tộc Nepal.



  Hy vọng hành trình này sẽ mang đến cho những ai yêu mến Nepal một góc nhìn tương đối đầy đủ về Đất nước hình Tê Giác.
 Loạt bài này sẽ đăng đầy đủ trên Blog Giải Mã India và đăng tóm tắt trên blog này cùng với blog Phú Nepal.
 Rất mong các bạn ủng hộ!

1 tháng 9, 2018

Tiếng Hindi (1)


Hindi là ngôn ngữ trực hệ của Sanskrit và các thổ ngữ của văn minh sông Hằng (Ganges Civilization). Tại Ấn Độ, hơn 180 triệu người Ấn xem Hindi là tiếng mẹ đẻ, 300 triệu người xem Hindi là ngôn ngữ thứ hai. Ngoài Ấn Độ, tiếng Hindi được sử dụng  bởi hang chục triệu người ở Nepal, Nam phi, Mỹ, Đức, Uganda, Mauritius…



Hindi phát xuất từ nhóm thổ ngữ Apabhransa vốn bị các học giả Sanskrit cổ đại xem là “ngôn ngữ không ngữ pháp” (non-grammatical language) ở vùng dọc theo sông Hằng từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 13, vốn là khu vực văn minh nhất tiểu lục địa Ấn Độ. Đây có thể coi như thứ tiếng của giới bình dân , đối lập với Sanskrit, vốn được coi là ngôn ngữ của Thần Linh và chỉ giai cấp Brahmin (Bà-la-môn) được phép sử dụng.

15 tháng 8, 2018

LỄ VU LAN NGUYÊN THỦY

Nhân mùa Vu Lan xin post lại loạt bài đã đăng trên Giác ngộ vài năm trước về Lễ Vu Lan. Lý do là vì mình đọc được rất nhiều bài viết đảo điên thứ tự về lễ Vu lan, kể cả của các "học giả" . Thay vì phải lần tìm về nguồn cội của một nghi lễ có xuất xứ từ chính Đức Phật (do chính Phật Thích-ca lập nên, nghĩa là trên 2500 năm), tại địa phương của nó, các "học giả" nhà ta lại lộn đầu xuống đất, dịch ngược từ VU-LAN của tiếng Trung Quốc sang tiếng Sanskrit thành ULLAMBALA, khiên cưỡng theo cái nghĩa TỘI TREO NGƯỢC - một trong những hình phạt ở địa ngục. Đăng bài này lại để nhắc các "học giả" rằng Đạo Phật xuất xứ từ Ấn Độ, không phải Trung Quốc và dịch ngược danh từ riêng từ tiếng Trung quốc về tiếng Phạn sẽ đi sai đường. Hãy trả lại Cesar cái gì của Cesar!
_______________________________

PHN 1: KHẢO SÁT VỀ NGUỒN GỐC LỄ VU-LAN Ở KATHMANDU, NEPAL
*********
Vu Lan "Bồn"
Chúng tôi đoan chắc rằng GŪLA chính là từ nguyên của Vu-lan khi phiên âm sang tiếng Trung Quốc. Cũng như Vu-lan bồn là để chỉ cái chậu chứa năm thứ vật thực cúng dường chư Phật hoặc chư tăng, ni trong ngày Pancha Dana; nghĩa bóng là Lễ Cúng Dường mùa Vu Lan (không phải dịch ngược Vu lan từ tiếng Trung sang tiếng Phạn thành ullambala - tội treo ngược rồi áp đặt nghĩa Lễ Đảo Huyền cho Vu lan như một số "học giả" vẫn làm vào kỳ Vu lan hàng năm - NP).
Một số “bồn” dùng trong mùa Vu-lan của người Newari: GULPA, và GULU dùng đựng các vật thực cúng dường Chư Phật (bình bát bằng đồng). GULPA và GULU chính là từ nguyên của Vu-lan Bồn.





  Trong quá trình 5 năm cư trú tại Nepal, chúng tôi đã có dịp may để khảo sát những phong tục cổ truyền của dân chúng địa phương tại đây. Một trong những lễ trọng trong năm, hoặc có thể nói là quan trọng nhất, của Phật tử ở đây là Đại lễ Vu-lan. Lễ Vu-lan của Nepal có gì khác với lễ Vu-lan tại Trung Quốc và Việt Nam? Nó được thực hiện như thế nào? Nguồn gốc của lễ ấy?

3 tháng 7, 2018

TIẾNG NEPAL - NEPAL BHASA (PHẦN 1)


TIẾNG NEPAL LÀ GÌ?
TIẾNG NEPALI HIỆN TẠI CÓ GỐC TỪ HINDINEPAL BHASA (tiếng Nepal) thực ra không phải là tiếng Nepali hiện tại được Quốc hội Nepal công nhận làm quốc ngữ cho một quốc gia nhiều tộc người,  nhiều ngôn ngữ. 

    Nepal Bhasa thực ra là ngôn ngữ chính thức của người Newar (còn gọi thông dụng là tiếng Newari),  chủ nhân của Nepal Mandala.
Sau khi vương tộc Shah đánh bại được các vua Malla và chiếm được Thung lũng Kathmandu vào năm 1768,  để dập tắt sự phản kháng của người Newar và thiết lập sự cai trị tuyệt đối của mình,  triều đại Shah đã lấy tiếng Hindi của Ấn Độ rồi chế biến lại chút  đỉnh để  tạo thành tiếng Nepali của triều đại mới.  Thâm hiểm hơn,  triều đại Shah chẳng những đặt tiếng Newari ra khỏi đời sống văn hoá,  chính trị của vương quốc Nepal mà còn ăn cắp luôn cả cái tên Nepal Bhasa để đặt cho thứ tiếng mới của mình.
Sự huỷ hoại    hệ thống của triều đại Shah suốt 200 năm qua đã hầu như xoá sổ một nền văn minh có quá khứ huy hoàng trải dài 2000 năm,  có tiếng nói,  chữ viết đặc sắc.


BỘ CHỮ RANJANA LIPPI CỦA NGƯỜI NEWAR Ở KATHMANDU VALLEY

28 tháng 6, 2018

TRANH DÂN GIAN MITHILA - TÂM HỒN THƠ MỘNG (3)

Quân đội Hoàng Gia Nepal tuần tiễu trong thời gian nội chiến

Nepal vào những năm cuối cuộc nội chiến đầy những hàng rào kẽm gai, những đồn bót chất đầy bao cát, những lính tráng mặc đồ rằn ri tay lăm lăm súng khắp mọi nơi... những hình ảnh đánh thức ký ức thơ dại của tôi về miền Nam vào thời gian cuối của cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Lúc tôi sống ở vùng Lumbini  vào những tháng cuối cùng của năm 2005, đêm đêm vẫn nghe vọng về những tiếng bom nổ ì ùm, những tiếng súng mơ hồ. Tuy nhiên, Khu Lumbini – nơi đản sinh của Đức Phật đã may mắn được các bên tham chiến ngầm thoả thuận đặt ra khỏi những trận đánh giành dân chiếm đất của tất cả các bên. Tôi sống ở Lumbini thì đã may mắn sống trong một “khu trung lập” giữa một vương quốc đang chìm vào những ngày bạo liệt nhất cuối cuộc chiến. Ngồi phía sau chiếc xe bò lọc cọc đi trên con đường làng, nhìn lại về hướng chiếc cầu vẫn còn đang toả khói đen trong bóng hoàng hôn sẫm máu, tôi chợt rùng mình. Nếu chiếc xe bus mà chúng tôi đi không dừng lại để rước thêm khách ở ngã tư vành đai hoặc thiếu vắng đi vài trạm kiểm soát dọc đường có lẽ chúng tôi đã là nạn nhân của vụ đánh bom của quân du kích Maoist. Đây là lần gần nhất mà Thần Chiến Tranh ở Nepal đã phả hơi thở giá lạnh vào tôi.
   Hôm ấy, Cỗ máy thời gian đã vứt tôi ngược lại 30 năm vào thời điểm cộng sản đang chiếm lấy toàn bộ miền Nam giống như quân cộng sản Maoist đang chiếm lấy toàn bộ phần còn lại của Nepal. Dĩ nhiên thời điểm đó tôi không hề nhận ra điều ấy mà mãi nhiều năm sau này mới lờ mờ nhận thấy chuyện kỳ lạ này. Sau một thời gian ngắn nữa, Cỗ máy thời gian lại sẽ tái hiện cho tôi cái cảnh cộng sản dẫn dắt quần chúng bao vây lấy hoàng cung, lật đổ nhà vua của vương triều đã tồn tại hơn hai trăm năm mươi năm giống như cộng sản Việt Nam đã làm với triều đình Nguyễn ở Huế năm 1945. Nhưng đó là chuyện về sau, khi vương quốc Hindu cuối cùng trên Trái Đất bị cộng sản Maoist xoá bỏ một cách bạo liệt. Còn ngay lúc này đây, Cỗ máy thời gian đang phóng chiếu cho tôi những ảo ảnh của một vương quốc vô cùng nổi tiếng hơn hai ngàn năm trước.

16 tháng 6, 2018

TRANH DÂN GIAN MITHILA - TÂM HỒN THƠ MỘNG (2)

Khai bút Mùng Một Năm Mậu Tuất 2018

Giống như thần thoại là phóng chiếu những ước mơ của con người, tranh Mithila là phóng chiếu những tưởng tượng của người Mithila một cách hồn nhiên và thơ mộng nhất. NP
    
___________________
Đám cưới Rama và Sita - Tranh dân gian Mithila
      Tôi ra đến bến xe Gongabu – bến xe mới lớn nhất của Kathmandu vào lúc 7 giờ sáng một sớm đầu Đông 2006. Ba ngày trước lễ hội Vivah Panchami- kỷ niệm đám cưới của Ram và Sita, khoảng tháng 11 Tây lịch. Quầy vé bán cho tôi một vé đi Janakpur với giá khoảng 3USD có ghi số xe, số ghế đàng hoàng. Quảy chiếc ba lô chỉ vỏn vẹn 2 bộ đồ, một hộp bánh và chai nước, tôi đi tìm số xe và leo lên một chiếc xe bus đường dài trang trí sặc sỡ như tất cả mọi chiếc xe ở Tiểu Lục Địa. Xe có hai dãy ghế, mỗi hàng 3 ghế có trùm ghế bằng vải cotton dày màu vàng. May cho tôi, số ghế của tôi ở sát cửa sổ, vị trí tôi thích ngồi dù là đi máy bay hay xe đường dài để ngắm cảnh thoải mái. Ngồi chờ khoảng nửa tiếng thì có một đôi vợ chồng già người Nepal lên ngồi cạnh tôi. Họ chừng trên dưới 70 nhưng nhìn cái cách người đàn ông ân cần, chăm chút từng ly từng tý cho bà vợ giống như một đôi uyên ương mới cưới làm tôi vô cùng ngưỡng mộ. Người đàn ông mặc quốc phục của người Nepal: nguyên bộ áo dài tay (tapalan) -quần túm ống (suruwa) bằng vải cotton trắng, ngoài khoác một gilet đen, đầu đội nón topi đen, Người phụ nữ dĩ nhiên vận bộ sari đỏ - trang phục của hàng trăm triệu phụ nữ khắp Nam Á. Với tính tình cởi mở của cả người Nepal và dân Nam Bộ, chúng tôi mau chóng làm quen với nhau. Ông bà họ Thapa (một họ thuộc giai cấp quý tộc Nepal), ông từng làm công chức cấp cao, đã nghỉ hưu và lần này họ xuống Janakpur để coi mắt cô gái họ định cưới cho con trai của họ đang ở Anh Quốc. Biết ý nguyện của tôi muốn thăm viếng và tìm hiểu quê hương của Janaki (“con gái vua Janaka”), ông Thapa hứa sẽ nhờ người địa phương giúp tôi. Đúng là duyên lành.

2 tháng 6, 2018

TRANH DÂN GIAN MITHILA – TÂM HỒN THƠ MỘNG (1)

“I try to apply colors like words that shape poems, like notes that shape music. ”
- Joan Miro

“Tôi cố gắng ghép các màu sắc [vào bức tranh] giống như các từ tạo nên bài thơ, giống như các nốt tạo nên bản nhạc” Joan Miro- Danh hoạ Tây Ban Nha thế kỷ 20
____________
 Hội hoạ là môn nghệ thuật vô thanh.
Thế nhưng, với những danh hoạ như Joan Miro hay Picasso, tranh vẽ của họ lại rộn vang âm thanh bởi những sắc màu mang đầy “tiếng” của cuộc đời.
Ở Vương quốc Mithila ngày xưa, ngày nay bị chia đôi bởi biên giới hai nước Nepal và Ấn Độ, có một dòng nghệ thuật cổ xưa lại cất tiếng ca hát, mộng mơ như thế trước cả Joan Miro và Picasso nhiều thiên niên kỷ. Dòng tranh dân gian Mithila hay còn gọi là Madhubani, lấy theo tên một làng ngày ngay nằm ở bang Bihar thuộc India.
Ghép từ nhiều trích đoạn của các tranh Mithila
  Ngắm nhìn tranh Mithila, người xem chừng như có thể thấy được những vũ điệu mê hồn của màu và sắc, có thể nghe được tiếng nhạc lạc quan yêu đời của con người và thiên nhiên Ấn Độ và có thể cảm được cái chính xác nhất là “Tâm Hồn Ấn Độ” - Soul of India, mà không một dòng tranh nào của Ấn Độ có thể làm được.
  Ngây thơ và hồn nhiên.
  Tranh Mithila phô bày được cái “bản thể nguyên sơ” của tâm hồn con người. Phô bày được khoảnh khắc đầu tiên con người xúc động trước Cái Đẹp và tìm cách lưu nó lại để thưởng thức.

  Tranh Mithila lại còn phô bày được con đường tiến hoá của nghệ thuật đi từ giản đơn đến phức tạp rồi cuối cùng giản dị hoá trở về với chính mình như thế giới trong đôi mắt trẻ thơ; chỉ còn lại những vần thơ đầy màu sắc lay động cảm xúc của mọi trái tim  yêu Cái Đẹp.
Tôi chạm trán lần đầu với nghệ thuật hội hoạ Mithila một cách rất bất ngờ. Cuối tháng 11 năm 2006, sau khi đã ở Nepal được hơn một năm, tôi mới hội đủ cơ duyên để làm một chuyến phiêu lưu nho nhỏ xuống vùng Nam Nepal giáp giới Ấn Độ. Hồi ấy, cuộc nội chiến Nepal đang đi vào giai đoạn kết thúc và cũng giống như cuối thời gian loạn lạc ở bất cứ nơi đâu chuyện mất trật tự trị an là một hệ luỵ đi kèm cho các cuộc “cách mạng bạo lực”. Huống chi, đó lại là vùng biên giới luôn luôn mở cho bất kỳ người Ấn Độ và Nepal nào qua lại tự do, lại là vùng quân đội Maoist Nepal với sự hỗ trợ của Maoist Ấn Độ hoạt động mạnh mẽ nhất.
 Vì sao tôi “phải” tìm đến tận nơi ấy?

28 tháng 11, 2013

Giải mã bí ẩn Ấn Độ?

  Nguyễn Gia Kiểng (11/2013)
Link gốc: http://www.ethongluan.org/index.php?option=com_content&view=article&id=4897%3Agi-i-ma-bi-n-n-d-nguy-n-gia-ki-ng&catid=44&Itemid=301

**********************

“…Phép mầu lớn nhất trong thế kỷ 20 đã là phép mầu Ấn Độ và có lẽ trong thế kỷ 21 cũng thế. Ấn Độ đã thành công và còn đang tiếp tục thành công…”

Ngay trước khi tôi sắp lên đường đi thăm Ấn Độ một bạn trẻ trong nước hỏi tôi trên Facebook: "Tại sao Ấn Độ có dân chủ mà lại tụt hậu, nghèo đói, bất công, dơ bẩn, đàn ông hay hãm hiếp?". Tôi không thể trả lời câu hỏi đó vì đối với tôi Ấn Độ là một thành công và tôi đang cố gắng giải mã thành công đó, nghĩa là tìm hiểu tại sao Ấn Độ lại thành công dù trước đây mọi dự đoán đều rất bi quan?
Những gì mà trong tuổi thanh thiếu niên tôi nghe được về Ấn Độ đều mô tả một đất nước kinh dị, nghèo khổ và dơ bẩn một cách huyền bí. Trong thập niên 1960 khi du học tại Pháp tôi may mắn có một người bạn thân mà cha mẹ là hai ông bà bác sĩ từng làm công tác nhân đạo nhiều năm tại Ấn Độ và đã góp phần quyết định đẩy lùi bệnh hủi tại đây. Tôi lui tới thường xuyên gia đình này và được coi như người nhà. Qua họ tôi cũng quen biết nhiều chuyên gia khác về Ấn Độ. Những gì hai ông bà và các bạn họ nói cũng phù hợp với những gì có thể đọc trong các sách và báo: Ấn Độ không có tương lai, người ta chỉ có thể vì lòng nhân đạo mà giúp nó đỡ nghèo khổ chứ không thể giúp nó vươn lên. Ấn Độ có tất cả mọi khó khăn mà một quốc gia có thể có và đều có ở mức độ nguy kịch. Nghèo khổ, dơ bẩn, tham nhũng và bất công cùng cực, các bệnh truyền nhiễm lan tràn, con người bệnh tật, mê tín dị đoan và bi quan yếm thế. Đã thế Ấn Độ lại không phải là một quốc gia mà là cả một thế giới hỗn độn với gần 2000 ngôn ngữ và hơn 500 vùng dị biệt xuất phát từ những chiến quốc cũ không có và cũng không muốn có quan hệ hợp tác với nhau. Trong lòng một mình Ấn Độ có nhiều di biệt và tương phản hơn cả trong phần còn lại của thế giới. Người Ấn Độ trong tuyệt đại đa số không biết đọc biết viết và không nhìn nhau như đồng bào. Mẫu số chung của cái thế giới hỗn tạp này chỉ là sự nghèo khổ, bệnh tật, dơ bẩn ngoài mức tưởng tượng. Ra ngoài đường ở bất cứ thành phố nào người ta không thể không thấy những đoàn người hốc hác vì đói trong đó có nhiều người đang chết đói. Một vấn đề nghiêm trọng khác là nạn nhân mãn. Ấn Độ đã quá đông dân và mỗi năm vẫn thêm một số người tương đương với dân số của cả nước Úc. Kết luận, Ấn Độ hoàn toàn tuyệt vọng. Những trí thức thân cộng, rất đông đảo trong suốt thập niên 1960, đôi khi so sánh Ấn Độ và Trung Quốc để bênh vực cho chủ nghĩa Mac-Lênin. Theo họ hai nước lớn này đã chọn hai con đường khác nhau vào cùng một thời điểm và thực tế cho thấy là Trung Quốc đã hơn hẳn Ấn Độ, điều này chứng tỏ sự đúng đắn của chủ nghĩa cộng sản. So sách này khập khiễng bởi vì hai nước khởi hành từ hai mức độ quá khác nhau.
Thế rồi người ta càng ngày càng ít nói tới Ấn Độ. Chưa ca tụng Ấn Độ nhưng cũng ít ai còn nói Ấn Độ là một trường hợp tuyệt vọng nữa. Tới gần ngưỡng cửa thế kỷ 21 Ấn Độ được nhắc tới như là một thành công. Trong những năm gần đây không còn ai phủ nhận Ấn Độ là một cường quốc đang lên và tư cách thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chỉ còn là vấn đề của một vài năm.
Không những thế, sự thành công của Ấn Độ lại rất lành mạnh. Ấn Độ không "đi nước dưới" như Trung Quốc và hầu hết các nước đang phát triển, nghĩa là khai thác nguồn nhân công rẻ để xuất khẩu quần áo, giày dép và những sản phẩm kỹ thuật thấp.  Ngược lại, Ấn Độ "đi nước trên" và cạnh tranh với các nước tiên tiến ngay trong những kỹ thuật hiện đại: công nghệ thông tin, điện tử, sinh hóa, dược phẩm, kỹ nghệ ôtô, hàng không v.v.

17 tháng 11, 2013

LỄ HỘI GANESH JATRA Ở CHABAHIL-KATHMANDU


GANESH JATRA 2013


  Đây có thể là lễ hội xưa nhất của Kathmandu còn tồn tại cho đến ngày nay (khoảng hơn 2200 năm).
Ganesh Jatra kéo dài bốn ngày bắt đầu từ tối hôm nay. Là lễ hội của cộng đồng dân bản địa Newar khu vực Chabahil. Đây là thủ đô xưa nhất của người bản địa Thung Lũng Kathmandu, tên là Deopatan  (Deo: thần thánh; Patan: thành phố- Deopatan: Thành phố thần thánh, một cách xưng tụng thủ đô thời cổ đại).
 Người bản địa xưa hơn hết ở Kathmandu Valley là người Kirat (chính là một bộ tộc thuộc sắc dân Naga, xưa kia India gọi là Mleccha [Mã Lai theo cách dịch của ông Bình Nguyên Lộc). Tộc Kirat này đã từng được ghi nhận trong lịch sử India qua việc tham gia trận đại chiến Bharat nổi tiếng , sau này ghi lại thành sử thi Mahabharata. Khi Alexander tấn công India, Chandragupta Maurya (ông nội của  Asoka) được sự giúp đỡ của các đội quân thiện chiến người Kirat đã chặn đứng bước tiến qua phía Đông của vị hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Tây phương. Sau đó, Chandragupta thành lập nên đế chế Maurya nổi tiếng.
 Asoka, sau khi đã trở thành một Phật tử thuần thành, có làm một cuộc hành hương thăm viếng hầu khắp các thánh tích Phật giáo ở India. Sau khi thăm viếng Lumbini và dựng trụ đá ở đó, Asoka vượt qua dãi Terai đi lên tận Thung Lũng Kathmandu là thủ đô của vương quốc Kirat thời bấy giờ. Tại Kathmandu, ông xây dựng 5 bảo tháp ở nơi ngày nay là thành phố Phật giáo Patan. Ông gã con gái của mình, Công chúa trưởng Charumati cho một hoàng tử Kirat. Sau đó Asoka quay về lại India còn Charumati ở lại Thung lũng Kathmandu.

13 tháng 11, 2013

LÁ THƯ NEPAL

   Hôm nay rảnh, định mở chủ đề mới lấy tên là "Lá thư Nepal" nên lục lại các bài viết cũ đã gần 3 năm trước. Các bài này tham gia cùng anh Hữu Thiện (bậc đàn anh đáng trọng, đáng quý nhất của tôi) trên Lucky Luke FC. Nhận thấy vẫn còn phù hợp và các bài này có một "giọng điệu" hay hay, có thể thích hợp cho những Lá thư Nepal sắp tới để truyền tải văn hóa, phong tục, cuộc sống, con người Nepal đến bạn đọc nên mình mạn phép lấy lại các bài này làm entry mở hàng. Bài khá dài (vì tổng hợp của 4 bài đã đăng trên Lucky Luke FC, xin mời lướt qua nội dung! NP

***************

LÁ THƯ NEPAL 1-2-3-4

   Đây là các bài đã đăng trên mục FC Dzui  tại LuckyLuke FC.com (các bài này được biên tập bởi Nhà báo Hữu Thiện) 

Lá thư Nepal: Nơi đây có… “cao bồi” thứ thiệt ở châu Á!


Hình như  chỉ ở Nepal là còn có “cao bồi” thứ thiệt của châu Á, ngay cả ở thế kỷ XXI này. Cỡi ngựa lang thang theo họ trên cao nguyên Mustang sẽ biến giấc mơ tuổi nhỏ, dệt từ những trang Lucky Luke, có ngày sẽ thành sự thật…

Kathmandu, ngày 28/2/2011,
Anh chủ nhiệm rất thân mến,
Cái website Lucky Luke của anh quá tuyệt!
Tôi mê anh chàng cao bồi này từ nhỏ, và hình như nhiễm máu “cao bồi giang hồ” từ bộ truyện tranh này.
Dù là truyện cao bồi nhưng không có máu me, không có chết chóc! Mọi chuyện rồi sẽ kết thúc có hậu như ước mơ bao đời của mọi người”. Đó là một đặc điểm trong bộ Lucky Luke mà tôi rất “kết”.
Nhân vật tôi mê lại là chú ngựa Jolly Jumper độc đáo. Dịp Tết vừa rồi về Pokhara, tôi ngụ tại một nông trại thật dễ thương của một gia đình nọ ở địa phương. Trại này đang nuôi tám con ngựa. Dù nghèo nhưng họ lại cưu mang hơn mười trẻ mồ côi trong vùng, có em nay đã vào đại học.
Ở đây hơn mười ngày, ký ức tuổi thơ hiện về: nhớ trang trại ngày xưa của ba tôi, với cuộc sống bình lặng của thôn quê chân chất, với thiên nhiên hiền hoà, hồ nước đẹp như tranh vẽ, rừng thông tĩnh mịch,… Và vì vậy, hình như đang sống lại cái ước mơ hồi nhỏ vẫn mơ được cỡi ngựa lang thang như các chàng cao bồi.
Dịp may bất ngờ đến: mục dân Mustang mang ngựa từ cao nguyên Mustang xuống Pokhara đế tránh rét và bán. Vậy là tôi mua một con ngựa Mustang trắng, giống ngựa thuần chủng nổi tiếng của cao nguyên Mustang ở Nepal. Chú ngựa này mới ba tuổi, giá chỉ 2.000USD. Tôi gọi chú là Arun (tên thần gió trong thần thoại Ấn Độ, mà dịch nôm theo tiếng Anh bồi là Anh chàng chạy (run) nhanh…). Rồi tôi gởi Arun lại, nhờ gia đình Gautam chăm sóc. Tiền thu được từ việc cho du khách thuê (20USD/giờ) sẽ chi phí cho chính cuộc sống của Arun, một phần dùng vào việc bảo trợ trẻ mồ côi ở địa phương. Còn khi nào có thời gian về Pokhara, tôi sẽ có ngựa cỡi. Vậy là một công, ba-bốn việc. Khoái nhất là sở hữu một con ngựa trắng thuần chủng (việc mà ngay cả cao bồi thứ thiệt ở Viễn Tây ngày xưa cũng khó có cơ hội… hì hì). Thế nào rồi tôi cũng sẽ cỡi ngựa lang thang trên rừng núi vùng Himalaya, giữa những cánh rừng rực rỡ hoa đỗ quyên,…

Tác giả Nguyễn Phú bên chú ngựa Arun của mình.
Lại ước mơ tiếp: thế nào cũng sẽ có dịp theo những đoàn “cao bồi” thứ thiệt của thế kỷ XXI (mục dân Mustang nuôi ngựa, trâu yak, hàng năm mang những đoàn hàng trăm con ngựa giống, hoặc dắt hàng đoàn trâu yak thồ muối từ những hồ nước mặn trên cao nguyên, mang xuống bán ở miền xuôi). Lang thang lên cao nguyên Mustang 4.000m trên mực nước biển – giấc mơ tuổi nhỏ dệt từ những trang Lucky Luke chắc chắn sẽ có ngày thành sự thật…


Ngựa Mustang ở Nepal

Cỡi ngựa Mustang bản địa khi du lịch ở cao nguyên Mustang mới là… sành điệu! Từ năm 1992, muốn vào vùng Thượng Mustang ở Nepal, du khách nước ngoài cần có một giấy phép đặc biệt, và trả chi phí 50USD/ngày/người. Mustang (tiếng Tây Tạng là Mun Tan, có nghĩa là đồng bằng phì nhiêu) xưa là Vương quốc Lo, nay là một huyện của nước Nepal, nằm trên một cao nguyên ở trung phần phía Bắc Nepal, giáp với cao nguyên Tây Tạng thuộc Trung Quốc. 
Hình như chỉ  ở Nepal là còn có “cao bồi” thứ thiệt của châu Á (“cao bồi” Mông Cổ đã “tuyệt chủng” theo như Tô-tem Sói của Khương Nhung, còn “cao bồi” Tây Tạng giờ cũng bị xoá trắng bởi chính sách Hán hoá, như ở Mông Cổ). Ở những thư sau tham gia cùng Lucky Luke FC, tôi sẽ kể với các fan nhiều hơn về đề tài này: về cuộc sống “cao bồi” – du mục ở Nepal thế kỷ XXI, về ngựa Mustang, trâu Yak, về những chuyến đi du mục ở vùng núi Hymalaya,…
Thú thiệt, tôi chưa tìm hiểu kỹ việc xuất bản bộ Lucky Luke ở Nepal. Tuy vậy, tôi có biết sơ là Lucky Luke, và kể cả Tintin, vốn chẳng xa lạ gì với người Nepal từ các thế hệ 30 tuổi trở lên. Ở Nepal, họ nhập trực tiếp sách tiếng Anh (tiếng Anh là ngôn ngữ rất phổ biến ở đây, kể cả ông Gautam ở nông trại hẻo lánh, mù chữ mà cũng có thể nói được tiếng Anh).
Thời bao cấp ngày trước ở nước mình, có khi nhặt được vài trang truyện tranh này lưu lạc đây đó là tôi đem về giữ, quý như vàng. Giờ đây, bạn đọc Việt Nam hạnh phúc quá, có thể mua được các truyện tranh này dễ dàng, trọn bộ, rồi lại có thêm website tập trung, tâm huyết như vầy,…
NGUYỄN PHÚ
(Kathmandu, Nepal)
Vài nét về tác giả Nguyễn Phú  Nick: Cao bồi NP (Nguyễn Phú, hay… Nepal cũng được).
Tuổi: Cầm tinh con ngựa.
Là người “tham lam”: nghiên cứu lịch sử – văn hoá Nepal và Ấn Độ, hoạ sĩ, và… cầm đầu một công ty xuất nhập khẩu ở Nepal.
Là hoạ sĩ đầu tiên triển lãm tranh tại Lumbini (vườn Lâm Tỳ Ni, ở Nepal, nơi đức Phật Thích Ca đã giáng sinh), vào dịp Phật Đản 2010. Một mình cõi “ngựa sắt” lang thang khắp vùng Himalaya ở Nepal, và để lại “dấu bánh xe “ tại một đỉnh núi cao 3.000m.

Lá thư Nepal 02: Cao bồi vườn “đụng” giang hồ mãi lộ


Sau khi đã “mãi lộ” kha khá, chừng 200 rupee để qua được gần 100 “trạm” suốt dọc đường về Pokhara, “cao bồi vườn miền Tây” mới có cơ hội trêu chọc các tiểu giang hồ mãi lộ Nepal…
Các bạn thân mến,
Tuần rồi, cảm thấy hơi bị stress và cũng nhớ chú ngựa Arun quá nên tôi “trốn việc”, phóng mô-tô xuống Pokhara (thủ đô Kathmandu của Nepal cao 1.200m trên mực nước biển, còn Pokhara cách đấy 210km hướng Tây Nam, trên độ cao 800m).
Quả tình tôi đã đãng trí, vô tình chọn ngày không thích hợp cho việc di chuyển ở Nepal! Vì hôm ấy trúng dịp lễ hội Maha Shivaratri (Đêm vĩ đại của Shiva), là lễ hội quan trọng nhất của tín đồ Hindu theo phái Shaivism (phái này thờ thần Shiva như vị thần tối cao, trong khi phái thứ hai là Vaishavism thì tôn thờ Vishnu như chúa tể vũ trụ) diễn ra vào ngày trăng non của tháng Falgun theo lịch Ấn Độ (khoảng cuối tháng Hai đầu tháng Ba Tây lịch). Hàng triệu tín đồ Hindu từ khắp các nước Ấn Độ, Bangladesh, Malaysia, Mỹ, châu Âu,… hành hương về địa điểm linh thiêng nhất của Hindu giáo ở Nepal: ngôi đền thiêng Pashupati ở Kathmandu.

Thần Shiva nuốt Halahala để cứu muôn loài.
Theo thần thoại Hindu, có một lần thế lực hắc ám đe doạ huỷ diệt vũ trụ dưới hình thức Halahala (chất tối độc trồi lên khi các vị thần khuấy đảo Đại dương Sữa huyền thoại để tìm thuốc trường sinh – hạnh phúc). Với tư cách là Người bảo vệ vũ trụ, thần Shiva đã nuốt chửng chất độc ấy để cứu tất cả muôn loài. Chất độc bỏng cháy cổ họng Shiva và làm thân thể Ngài lạnh giá. Ngài chạy băng trên những ngọn núi tuyết của Himalaya để làm dịu nó đi. Dừng chân tại một cánh rừng, những thợ săn thấy Ngài run rẩy vì lạnh nên đã vội vàng chạy đi gom củi khô, đốt lên một đống lửa to để sưởi ấm cho Ngài.
Ganga (nữ thần sông Hằng) đã mang nguồn nước tinh khiết từ thượng nguồn của các dòng sông để hạ nhiệt cho cổ họng của Shiva. Nhưng vẫn chưa đủ. Cho đến khi mặt trăng chui vào trong mái tóc dài rậm của Shiva giải toả sức nóng đang nung đốt trong đầu và luồng hơi lạnh giá trong cơ thể Ngài. Sau những giây phút “xuống địa ngục rồi lên đỉnh”, Shiva vô cùng phấn khích và bắt đầu hân hoan nhảy múa vũ điệu tandawa nritya.
Chính vì thế, ngày trăng non ấy được gọi là Maha Shivaratri để kỷ niệm ơn cứu mạng của Shiva với muôn loài, còn khu rừng ấy nay là khu vực toạ lạc ngôi đền thiêng Pashupati (tên gọi cổ và nguyên thuỷ của Shiva, nghĩa là Người bảo vệ muôn loài).
Vào ngày Maha Shivaratri, từ sáng sớm trẻ con tụ tập thành từng nhóm ba – bốn, có khi lên đến hàng chục đứa, giăng dây ngang tất cả các con đường, chặn mọi người lại và hò reo “Maha Shivaratri”! Thế là các “khổ chủ” phải móc túi đưa cho chúng tìên lẻ 1-2, cho đến 5-10 rupee. Chỉ khi đó, chúng mới hạ dây cho đi qua. Phong tục chỉ có ở Nepal này thực ra dành cho bọn nhóc gom tiền mua… củi, để tối đến đốt lên, kính mừng Shiva. Tôi thì gọi đó là “Ngày mãi lộ hợp pháp”.

Đền Pashupati trong đêm Maha Shivaratri.

Tác giả trong ngày Maha Shivaratri 2008 ở Kathmandu, hình nền phía sau chính là ngôi đền thiêng Pashupati.

Chạy xe 200km trong ngày mà cứ vài chục mét là có một “trạm mãi lộ” đủ các cỡ giang hồ từ bốn – năm tuổi đến “over teen”, có khi lại có cả nhóm những cô gái tuổi teen, ăn vận trang phục cổ truyền đẹp đẽ, bưng các mâm lễ vật (bột phấn màu đỏ để làm dấu bình an trên trán, hoa…) không cần dây nhưng vẫn được các “khổ chủ” tự nguyện dừng xe lại “nạp tiền mãi lộ”… Thật đúng là một “cơn ác mộng”!
Mặc dù đã chuẩn bị tiền lẻ theo kinh nghiệm mấy năm trước ở thủ đô Kathmandu,  nhưng đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến lễ hội Maha Shivaratri bên ngoài Kathmandu. Có điều tôi thực sự kinh ngạc khi thấy mọi người, từ tài xế xe tải nặng đến xe công, xe gia đình, đều không bực bội khi bị mấy chú nhóc sáu – bảy tuổi chặn đường“trấn lột” mà hình như rất tự nguyện dừng xe để trả tiền cho tụi nhóc. Nepal vẫn còn nhiều ẩn số với tôi…
Phần tôi, sau khi đã “mãi lộ” kha khá – chừng 200 rupee, qua gần 100 trạm mãi lộ của giang hồ – thì cảm thấy hơi bị mất thì giờ khi phải dừng xe mỗi 5 phút một lần, Vì vậy,  tôi bắt đầu chơi trò… “cao bồi vườn miền Tây” (miền Tây Nam bộ, hổng phải Viễn Tây bên Hoa Kỳ). Xé rào – vượt trạm… trò này xảy ra hồi thập niên 80 của thế kỷ trước (do chính sách “ngăn sông cấm chợ”, hàng hoá không thể lưu thông, người nhà ở quê có khi phải mang lậu vài ký gạo, đường, thịt heo để tiếp tế cho bà con sống trên thành phố,…). Tức là cứ nhác thấy xa xa các chú nhóc dàn hàng giăng dây là tôi bóp ly hợp, nẹt ga doạ các chú, làm như không giảm tốc độ… Con ngựa sắt của tôi đã “độ” lại cặp pô khủng lấy từ Moto Bullet của Anh, tiếng gầm rất “khủng bố” (đến nỗi hàng xóm cứ gọi nó là “Helicopter” – trực thăng). Coi “hung hăng” vậy chứ các tiểu giang hồ mãi lộ khá nhát gan, hễ bị doạ là chạy té tát khỏi đường đi, dây nhợ quăng lỏng chỏng… Nhưng rồi tất cả cùng cười xoà, vì ai cũng cho là trò vui… “Trấn lột” cũng vui, mà “vượt trạm” cũng vui!
Tối ấy, tôi dạo quanh thành phố Pokhara. Đám thanh niên đã vác những súc gỗ to dựng lên những đống củi lớn ở khắp các nơi. Màn đêm buông xuống là cuộc vui náo nhiệt bắt đầu… Lửa bắt đầu đốt lên, mọi người quậy tưng bất kể tuổi tác: hò hét vui vẻ, hát ca vang trời, nhảy múa hỗn độn… Thỉnh thoảng có tiếng “pháo tép” vang lên, khi mấy chàng trai trẻ hơ các cây mía tươi trên ngọn lửa rồi quật hết sức xuống nền đất, làm thân mía nổ vang như pháo…

Các ông đạo ở Pashupati trong ngày Maha Shivaratri.
Ở Pashupati – Kathmandu, đêm ấy là đêm không ngủ. Vào chập tối, tổng thống và thủ tướng Nepal (trước đây là chính nhà vua và toàn bộ hoàng tộc) đi đến ngôi đền thiêng để chiêm bái Shivalinga và cầu nguyện cho đất nước. Trên các sườn đồi và rừng cây xung quanh ngôi đền, hàng ngàn Sadhus (ẩn sĩ khổ hạnh của Hindu giáo, tiếng miền Nam gọi là Ông Đạo) gần như loã thể, mình trát đầy tro, mặt bôi vẽ các loại phẩm màu, tóc dài quấn quanh đầu ngồi bên các đống lửa hút cần sa trong các ống vố bằng đất (theo phong tục Hindu, cần sa là loại thuốc hút ưa thích của… Shiva, và theo luật bất thành văn hiện nay, sau khi chính quyền cấm trồng và sử dụng cần sa, thì chỉ có các Sadhus là được phép sử dụng).
Đêm về khuya, hơi lạnh bắt đầu thấm. Cũng như các thành phố khác của Nepal, Pokhara đi ngủ sớm. Chỉ còn con đường ven hồ Phewa, nơi tập trung các nhà hàng khách sạn cho khách du lịch tứ xứ là còn nhộn nhịp. Tây ba lô (và cả châu Á ba lô) vẫn còn nườm nượp ra vào các quán bar, hay tụ tập bên các đống lửa của người địa phương để “vui ké”, dù có thể chẳng biết đó là ngày lễ gì… Có hề gì, thế giới đã là một ngôi nhà chung, niềm vui kỷ niệm ơn cứu mạng có thể chia sẻ cho nhau, bất kể màu da, quốc tịch, tôn giáo. Chính vì thế, “cao bồi vườn miền Tây” mới có cơ hội trêu chọc các tiểu giang hồ mãi lộ Nepal…
Hẹn thư sau sẽ đưa các bạn “chíp” một anh chàng cao bồi đến từ… Barcelona (Tây Ban Nha). Bật mí xíu xíu: Hắn ta vỗ bụng khoe rằng “Tao, tao cũng khoái… Averell Dalton lắm!”…
Chào thân ái!
CAO BỒI NP
(Kathmandu, Nepal)

 

Lá thư Nepal 03: “Khi nào ta măm?”


Bất ngờ, chàng cao bồi Tây Ban Nha ấy thuở nhỏ lại là một… “Averell Dalton”, và nay vẫn “mê” Averell vì bản chất trẻ con, cách nhìn trẻ con không bao giờ mất ở hắn.
“Namaste!”
Đó là câu chào của người Nepal và người Ấn Độ, với hai tay chắp trước ngực. Đó cũng chính là cách chào nguyên thuỷ của phật tử: “Nam mô”.
Tôi đã về lại Farmhouse, một nông trại nhỏ nằm ven hồ Phewa, ở ngoại ô Pokhara. Vừa gặp tôi, bà Gautam đã hỏi ngay: “Khana khayo?” (ăn cơm chưa?). Đây lại là câu chào thân mật của người Nepal. Nghèo cách mấy, khách đến nhà cũng phải mời cơm cho bằng được.
Nông trại có bốn phòng cho thuê, giá chỉ 5$/ngày. Quá “bèo”, so với giá rẻ nhất 20$/ngày của các khách sạn ở khu bờ hồ. Có lẽ vì vậy mà, khi tới Pokhara, khách du lịch khoái đến khu này mướn phòng. Không chỉ Tây ba lô mà cả khách trung lưu, dù khu này cách xa chợ búa, thiếu tiện nghi. Ngoài giá rẻ, có lẽ còn vì nơi này gần gũi thiên nhiên, thứ mà khách du lịch phương Tây muốn hưởng thụ, chứ không phải tiện nghi. Ngoài ra, nơi này còn là chốn “ăn chơi”. Ăn: cá tươi câu, hoặc lưới, ngay tại hồ; gà thả rong (không phải gà công nghiệp); rau củ hoa trái trực tiếp thu hoạch từ vườn. Chơi: chèo thuyền, dù lượn (paragliding), đạp xe, cỡi ngựa, câu cá, chạy bộ… hay đơn giản là… nằm khểnh giữa bãi cỏ mà ngắm trời, núi, ruộng, hồ, chim, bướm,…
Thoạt tiên, tôi không chú ý đến anh chàng cao kều ấy. Phòng hắn khoá cửa im ỉm suốt ngày, trong khi hắn lang thang đâu đó trong thành phố Pokhara và chỉ về lúc tối mịt. Buổi sáng thứ hai ở nông trại, khi tôi đang đứng vuốt ve chú ngựa Arun của tôi thì hắn cũng xuống chuồng ngựa.

Manuel (Lolo), đến từ Barcelona: "Tớ cũng khoái… ngựa!" (ảnh: Nguyễn Phú)
“Ngựa của bồ hả?” – tay bưng tách cà phê bốc khói, hắn đến cạnh tôi và hỏi. Hắn có gương mặt dễ gây thiện cảm, với nụ cười toe toét phô cả hàm răng thưa ám khói thuốc lá. Mái tóc nâu quăn tít, dài chấm vai, như một gã hippy lạc về từ thập niên 1970.
Tôi gật, và chào hắn: ”Namaste!”
“Manuel, from Spain.” – hắn tự giới thiệu, sau khi tôi nói tên tôi – “Còn bạn bè gọi tớ là Lolo.”
- Sao bồ khoái ngựa? – tôi gợi chuyện.
- À, từ nhỏ, tớ đã mê chuyện cowboy.
- Spain, mà ở vùng nào?
- Barcelona.
- A, Barcelona! Football, Ronaldinho… – tôi bật ra.
- Bồ cũng khoái anh chàng hô đó hả?
- Khoái chứ, khoái cả Don Quixote, cả đấu bò tót và các matador…
Mắt Lolo sáng lên khi nghe tôi nhắc tới những đặc sản quê hương hắn.
Chúng tôi cùng ngồi xuống bậc thềm nhà và trò chuyện như một đôi bạn thân lâu ngày. Anh chàng hút thuốc như ống khói tàu. Mà không hút thuốc đóng trong bao. Vấn – xe – liếm, “sành điệu” như… cao bồi thứ thiệt. Điếu này vừa tàn, đã móc túi lấy gói thuốc rê ra vấn điếu khác. Thêm vài câu nữa thì tôi biết rằng hắn tuổi vừa ngoài ba mươi, đang làm thợ sơn tràng (trồng và khai thác rừng thông) ở… Đan Mạch. Vừa đi bụi ba tháng ở Ấn Độ, hiện làm một tua vài tháng ở Nepal, sau đó trở lại Đan Mạch làm việc tiếp, kiếm tiền để năm sau đi bụi ở… Việt Nam và Campuchia.
- Bồ hút thuốc như… Lucky Luke… – tôi nhận xét với giọng đùa cợt.
- Oh, bồ cũng biết Lucky Luke hả? – hắn trợn tròn mắt, kinh ngạc.
- Biết chứ. Ở Việt Nam cũng có dịch và xuất bản truyện này rồi – tôi hơi tự ái – Bồ đọc truyện này nhiều lắm hả?
- Uh, đọc vài chuyện thôi, chủ yếu là xem phim hoạt hoạ trên tivii…

Averell Dalton tìm việc làm (tranh Lucky Lê Thái Dươong, Q.1, Tp.HCM)
- “Quand est-ce qu’on mange?” – đột nhiên hắn hỏi bằng tiếng Pháp, và khoái chí thấy vẻ mặt ngơ ngác của tôi. “When do we eat?” – hắn hỏi lại bằng tiếng Anh, và ôm bụng cười ngặt nghẽo. “Đó là câu tớ khoái nhất trong phim Lucky Luke… Ở nhà, anh chị tớ gọi tớ là… Averell…” – hắn cười khoái trá.
Mèng ơi! Thì ra hắn đang nhắc tới câu nói nổi tiếng của gã Averell Dalton: “Khi nào ta măm?”
“Tại sao?” – tôi hỏi giữa hai tràng cười.
“Vì hồi nhỏ, tớ rất ham ăn, luôn ăn vụng đồ ăn trong bếp…” – hắn xoa xoa cái bụng của mình – “Vả lại, tớ cũng thích nhất cái gã ngố ấy trong truyện Lucky Luke.”
- Tại sao? – tôi truy tiếp.
- À, hồi nhỏ thì tớ khoái cái ngố, ngây thơ, ham ăn của hắn. Sau này, nghiệm ra rằng bản chất trẻ con, cách nhìn trẻ con không bao giờ mất ở hắn đã làm cho mọi người đều khoái hắn. Averell Dalton cho ta một cái nhìn khác về thế giới, giống như qua tấm gương lồi lõm làm hình ảnh biến dạng đi, làm thế giới đa dạng hơn… Finally, he is a good man (gì thì gì, tóm lại gã là người tốt)…
Ông Gautam và người giúp việc bắt đầu đóng yên ngựa. Đầu tiên lót lên lưng ngựa hai tấm nệm bông, rồi phủ lên đó một tấm thảm Tây Tạng sặc sỡ, dệt từ lông trâu yak (loại thảm này rất bền và mắc: hơn 100USD một tấm). Kế đó mới buộc yên ngựa lên trên.

Buộc yên ngựa theo kiểu Nepal (ảnh Nguyễn Phú)

"Cao bồi" Barcelona cỡi ngựa thăm vùng Himalaya (ảnh Nguyễn Phú)

Ba lô chứa đầy… thuốc rê, giấy vấn, quẹt gaz - những vật bất ly thân của Lolo. (ảnh Nguyễn Phú)

Lolo hút thuốc chẳng kém chi... Lucky Luke thuở xưa! (ảnh Nguyễn Phú)

Cao Bồi NP, tác giả chuyên mục "Lá thư Nepal" trên Lucky Luke FC, cỡi Arun.
Lolo bảo rằng học cỡi ngựa ở đây quá “bèo”, chỉ 100USD cho… một tuần, nếu bên châu Âu thì phải vài ngàn đô-la. Đợt này về lại bên ấy, đã biết cỡi ngựa, Lolo nói thế nào cũng sẽ kiếm một con ngựa đi rong trong rừng thông Đan Mạch… Nghe mà ham…
Chúng tôi leo lên lưng ngựa, bắt đầu làm chuyến đi quanh hồ Phewa.
Mới cỡi ngựa ba ngày mà xem ra Lolo cũng đã khá thành thạo. Phần tôi thì còn sượng lắm, chưa quen với cảm giác di chuyển trên mình ngựa, và cử động của thân thể để điều khiển ngựa. Hoá ra đâu có dễ, dù coi phim thấy các tay cao bồi phóng ngựa như bay, làm đủ trò trên lưng ngựa. Kỹ năng thì phải luyện, chứ không ai mới sinh mà có, kể cả “cao bồi” Mông Cổ… Thêm nữa, nếu muốn ngựa phóng nhanh thì phái thúc gót thật mạnh vào bụng ngựa…Chờiii, làm sao tôi có thể đối xử như vậy với Arun của tôi? Nên tôi cứ lẹt đẹt phía sau ngựa của Gautam và Lolo.
Ba chúng tôi thả ngựa đi từ từ trên con đường nhỏ ven hồ. Mỗi lần có xe hơi là phải nép qua một bên nhường đường. Mà tài xế Nepal rất kiên nhẫn. Lỡ có gặp phải súc vật đứng chắn ngang đường là dừng xe đợi nó đi qua rồi mới đi, không dám húc bừa như các bác tài Việt Nam. Tôi có lần chứng kiến một bác tài chờ hơn 10 phút, trong khi ba con dê nằm nhởn nhơ giữa đường… Yêu mến và chung sống hoà bình với các loài động vật là tánh tốt đã nằm trong máu của dân xứ này, rồi biến hoá thành tín ngưỡng… thờ động vật.
Đang đi, bỗng con ngựa của Lolo giở chứng, không theo sự điều khiển của cao bồi Tây Ban Nha mà cứ lủi xuống đám cỏ xanh mởn, bãi đáp của dân paragliding. Lolo kéo dây cương hết bên này đến bên khác mà nó cứ quay vòng vòng. Bất ngờ, yên ngựa tuột dây, Lolo đổ nghiêng qua một bên, chân mắc trong bàn đạp nên té dập mông huỵch xuống đất. Con ngựa thì mừng rỡ chạy lao ra bờ cỏ ven hồ để… gặm cỏ. Lolo nhà ta ngồi cười méo xẹo: “He is Averell… (nó là Averell)”.

Hãi con ngựa Tango có “máu Averell” quá, gã cao bồi Tây Ban Nha đổi sang cỡi con ngựa Arun của tôi… (ảnh Nguyễn Phú)
Chúng tôi về đến nông trại khi mặt trời đã đứng bóng.
Như thường lệ, bà Gautam chào chúng tôi: “Khana khayo?”.
Cả hai chúng tôi xoa bụng và nói: “When do we eat?”, rồi phá ra cười. Bà chủ nhà há hốc mồm chẳng hiểu gì cả, có lẽ nghĩ rằng hai tay dở hơi này đã hoá rồ sau khi cỡi ngựa giữa trưa nắng. Vậy nên bà vội vàng chạy vô bếp, bưng ra… một bình nước lạnh to tướng…
Chào tạm biệt, và mời các bạn lần sau đến gặp chủ nhân của “Ngôi nhà của những rạng đông” – một đôi vợ chồng mù chữ có cô con gái đang học Y khoa ở… nuớc Anh.
When do we eat! Hê hê…
Cao Bồi NP
(Kathmandu, Nepal)

Lá thư Nepal 04: Lục tung kho báu Aladdin, săn… Lục-kỳ!


Chủ nhật rồi, tôi rảo một vòng các hiệu sách ở Kathmandu (thủ đô của Nepal) để tìm anh bạn cũ, quen thân đã gần 40 năm nay. Bạn hẳn đoán ra: anh ấy chính là kẻ-mà-chẳng-nói-ra-thì-fan-Lucky-đều-biết-đó-là-ai.
CHÂN BƯỚC THEO NHỊP… LẬT TRANG
Hồi đó, tôi học lớp Ba trường tiểu học Phan Thanh Giản ở Trúc Giang, Kiến Hoà (nay là Bến Tre). Từ hồi biết đọc, sách đã trở thành món nghiện của tôi. Còn nhớ cuốn đầu tiên tôi đọc năm lớp Hai không phải là truyện tranh, mà lại là cuộc phiêu lưu Hai vạn dặm dưới đáy biển của thuyền trưởng Nam-bộ (Nemo, hồi xưa sách thường phiên âm danh từ riêng sang âm Hán-Việt). Tôi mê sách tới mức ăn cơm cũng kè kè một cuốn sách trên tay, và thường một bữa ăn kéo dài hàng tiếng đồng hồ vì… đọc sách.
Cũng vì mê sách mà tôi có một kỷ niệm đáng nhớ với anh bạn ấy: chàng cao bồi Lục-kỳ (Lucky Luke, gọi gọn, theo âm Hán-Việt) của chúng ta. Thời đó, mỗi tháng thầy ban khen bảng danh dự cho năm trò đứng đầu lớp. Tháng ấy, khi tôi được bảng vàng danh dự cho hạng nhất trong lớp, ba tôi thưởng tôi một đồng kền 20 đồng (giá trị lớn lắm vào thời đó, với một nhóc tiểu học, vì đi học hàng ngày chỉ có đồng 1 đồng thôi). Ngày hôm sau, sau khi tan trường, tôi phi thẳng đến Thuận Hoà – một trong hai nhà sách lớn nhất của Kiến Hoà lúc ấy, nằm ngay bùng binh trung tâm. Tôi hoa mắt trước những bìa sách đẹp bày trong tủ kiếng, chỉ muốn ôm hết chạy về nhà đọc cho sướng. Nhưng sức người có hạn, 20 đồng tiền thưởng chỉ có thể mua được một cuốn duy nhất mà thôi. Lựa và chọn rất lâu… cuối cùng tôi “nhón” anh chàng cao bồi Lục-kỳ ra khỏi tủ kiếng (không còn nhớ là tựa gì, truyện tranh khi ấy chỉ có bìa in màu, còn các trang ruột in trắng đen trên giấy xấu).

Trong một nhà sách Nepal, truyện tranh được bày trang trọng ngay lối vào của tầng dành cho thiếu nhi (ảnh: Nguyễn Phú) 
Từ tiệm sách về tới nhà tôi chừng 500m, mắt tôi dán vô hình trong sách, chân bước theo nhịp… lật trang. Về tới cửa nhà thì tôi cũng “ngốn” xong cuốn Lục-kỳ nóng hổi dưới trưa nắng. Xui cho tôi, ba tôi ngồi ngay cửa ra vào và đã thấy thằng út của ông vừa đi vừa đọc sách.
Thường thì ông rất hãnh diện khoe với mọi người thằng út mê sách của ông. Tôi vừa bước vào cửa là ông hỏi: “Coi sách gì vậy con?”. Tôi hồn nhiên giơ cái bìa sách về phía ông. Ba tôi thiếu điều té cái đùng ra khỏi ghế khi thấy hình Lục-kỳ nhà ta tay cầm súng, miệng ngậm điếu thuốc choán gần hết cái bìa sách sặc sỡ.
Thời ấy, tiếng cao bồi hàm nghĩa rất xấu, dùng ám chỉ những người có hành vi côn đồ, lưu manh, coi thường luật pháp. Mắng “Đồ cao bồi!” tương đương như đồ mất dạy, lưu manh. Miền Nam có từ “cao bồi vườn”, miền Bắc có từ “cao bồi Phủ Lý” hàm ý khinh miệt kẻ lưu manh nhà quê, chưa đủ “tầm” để thành giang hồ thứ thiệt. Rồi còn có… “tướng cao bồi”… nổi tiếng xấu với những trò ngông, giật gân trong khi đất nước đắm chìm trong loạn lạc…
Quay lại với ba tôi, may mà ông kìm được không xáng cho đứa út cưng cái bạt tay nào. Cao bồi, bắn súng, rồi còn hút thuốc nữa chứ (anh tôi có lần bị trận đòn thê thảm vì bị bắt gặp lén hút thuốc trên… mái nhà). Không cần biết nội dung cuốn sách ra sao, ba tôi quát anh Chín tôi chở tôi bằng xe đạp trở ra tiệm sách để trả lại cuốn sách. Anh tôi (năm đó 17 tuổi, cũng là “tay ghiền” sách có hạng) trên đường đi tấp vào một vỉa hè và ngốn ngấu với tốc độ… Pony Express cuốn truyện tranh của tôi. Xong, anh cười và dặn đi dặn lại rằng: “Mày đừng nói là mày đọc xong rồi nhe!”. Hai anh em vô nhà sách, anh tôi trình bày rất lễ phép rằng thì là em nó còn nhỏ không biết lựa sách, rằng ba tôi sợ nó đọc sách cao bồi rồi hư, bla bla bla… Dĩ nhiên nhà sách không cho chúng tôi trả lại sách. Tuy nhiên, sau khi hỏi và được tôi gật đầu xác nhận chưa đọc cuốn sách, ông chủ tiệm đã tin (hay làm ra vẻ như tin) rằng nhóc tì như tôi không thể ngốn hết cuốn sách trên đường đi. Cuối cùng, ông và anh tôi đi đến giải pháp dung hoà là cho đổi lấy cuốn khác, không phải… truyện cao bồi. Quyền quyết định không phải là tôi nữa, và ông anh của tôi chộp lấy tập mới nhất của bộ Sĩ-Phú (Spirou) đang bày ở mặt tiền nhà sách, bộ truyện anh ghiền và đang sưu tập. Anh giấu cuốn sách dưới vạt áo sau lưng khi về đến nhà, và nói dối ba tôi là đã trả cuốn sách lại rồi. Phần tôi sau đó dĩ nhiên là bị phạt. Nhưng có hề gì, tôi được coi ké bộ Sĩ-Phú của anh tôi và được đổi năm cái máy bay mô hình bằng nhựa cho tập Sĩ-Phú mới nhất ấy…
CHUYỆN “HÀNG SALE” VÀ CÁI BÓNG… LÁNG GIỀNG
Lang thang hôm chủ nhật rồi trong những hiệu sách ở Kathmandu, ký ức ngày xưa ùa về như thác đổ. Tôi cười mà rơm rớm nước mắt khi trông thấy những quyển truyện tranh của tuổi thơ tôi nay in thật đẹp, bày trên các kệ sách. Rồi tôi lần mò lục khắp, từ các kệ sách bên ngoài cho đến kho sách bụi bặm bên trong, để tìm anh bạn cũ Lục-kỳ. Nhưng bói chẳng đâu ra một cuốn Lucky Luke!

Gặp lại ở Kathmandu những bạn cũ của tuổi thơ tôi (ảnh Nguyễn Phú)
Đó là ngạc nhiên lớn nhất của tôi về các nhà sách ở ngay thủ đô của Nepal. Ở đây, bạn có thể tìm thấy nhà sách chuyên đề với những sưu tập khổng lồ về văn hoá, tôn giáo Tây Tạng, Hy Mã Lạp Sơn,… Bạn có thể tìm thấy những hiệu sách cũ cho đổi sách 50% giá bìa sau khi đọc xong, hoặc nhận đổi CD, camera, laptop… lấy sách. Bạn cũng có thể choáng khi vào nhà sách Pilgrims, nơi mà tôi hay gọi đùa là ”kho báu Aladdin”. Đó là một toà nhà lớn ba tầng, đầy ắp sách, đồ lưu niệm, văn hoá phẩm, đồ cổ và… một kho sách hiếm – cổ, có tuổi từ vài chục đến vài trăm năm, giá bét nhất cũng 300USD một cuốn… Bạn có thể tìm thấy các collection Tintin, Astérix, Spirou,… song lại không thể tìm ra Lục-kỳ!
Tôi đã rảo qua hàng trăm kệ sách, lục tung các kho sách, kiểm tra trên màn hình máy tính của các nhà sách. Kể cả tìm đến Phòng sách thiếu nhi – nơi trước đây vốn là dinh thự của một hoàng thân Nepal, nay chuyển đổi thành Thư viện Quốc gia. Kể cả tìm đến thư viện nổi tiếng của hoàng thân Kaiser – người có thú sưu tầm sách và đã sưu tầm được một kho sách khổng lồ đầy giá trị, tới mức cả các học giả nổi tiếng Âu Mỹ cũng tìm tới tham khảo… Vậy mà tôi vẫn chưa thể tìm ra bất kỳ cuốn Lucky Luke nào, mặc dù hầu hết các chủ tiệm, hay thủ thư, đều biết đến bộ sách này.
Theo số liệu của Pilgrims, cách đây ba năm, họ có nhập về lô sách gồm năm tập Lục-kỳ, xuất bản ở… Ấn Độ. Nay, họ đã không còn cuốn Lục-kỳ nào trong nhà sách nữa. Thất vọng, tôi làm lại “cuộc săn” của mình từ dưới đất lên đến tầng áp mái của nhà sách Pilgrims. Cuối cùng, tôi lôi ra được một “anh Lục-kỳ” duy nhất, nằm ngủ quên trong đống sách bán sale (giảm giá 50%). Mừng húm!

Anh bạn Lục-kỳ duy nhất tôi tìm được ở Kathmandu tháng 3/2011 (ảnh Nguyễn Phú)
Đó là tựa Một cuộc phiêu lưu của Lục-kỳ – Gánh xiếc Viễn Tây, do nhà Tara Press xuất bản năm 2007 tại… Ấn Độ. Sách in màu offset trên giấy trắng dầy, rất đẹp, nên giá khá cao: 280 rupee Nepal (tương đương khoảng 80.000 đồng Việt Nam). Thú thật, tôi lấy cuốn đó vì là cuốn Lục-kỳ duy nhất còn lại ở Kathmandu thời điểm này, và vì giá giảm 50%. Có lẽ vì giá bán cũng là một lý do khiến Lucky Luke đã trở lại thị trường Ấn Độ nhưng không tạo được “cơn sốt” như các nhà xuất bản mong đợi.
Theo nghiên cứu của Comicology, một website cho dân ghiền truyện tranh ở Ấn Độ, thị̣ trường truyện tranh ở Ấn trị giá 3.000.000.000 rupee Ấn (khoảng gần một tỷ USD), và sẽ phát triển 40% trong vài năm tới. Không lạ gì khi các nhà xuất bản lao vào cuộc chạy đua tìm kiếm những tựa sách có thể làm nên cơn sốt ở thị trường tiềm năng hơn cả Mỹ, châu Âu, Nhật nhưng chưa được khai thác đúng mức này (Ấn có tròm trèm một tỷ dân, tỷ lệ có học và biết tiếng Anh rất cao; hơn nữa Ấn còn khống chế thị trường các nước Nam Á khác như Nepal, Sri Lanka, Bangladesh, Bhutan). Trong cuộc chạy đua ấy, năm 2007 Tara Press đã thăm dò thị trường bằng sê-ri năm tựa sách của bộ Lucky Luke - anh chàng cao bồi đã nhiều năm vắng bóng trên thị trường Ấn. Đó là các tập The Dashing White Cowboy, The Tenderfoot, Ma Dalton, Jesse James, Western Circus. Thật đáng ngạc nhiên là sau khi xuất bản năm tựa này, Tara Press không ra thêm bất kỳ tựa nào nữa, dù sê-ri Lucky Luke đã bán hết sạch, do bạn đọc Ấn nồng nhiệt đón nhận.
Năm 2008, Lion Comics xuất bản Lucky Luke bằng tiếng… Tamil (một ngôn ngữ phổ thông ở Nam Ấn), và CineBook nhập Lucky Luke bằng tiếng Anh từ châu Âu. Cả hai đều gặt hái kết quả rất tốt, nhờ công marketing của Tara Press trước đó. Theo đà ấy, năm 2009, EuroBooks – chi nhánh Ấn Độ của công ty EuroKids International Limited – đưa ra thị trường 24 tựa Lucky Luke. Trong đó, riêng Lion Comics – bá chủ thị phần truyện tranh tiếng Tamil – cứ đều đều phát hành mỗi tháng một tựa Lucky Luke cho tới nay.

Các ấn bản Lucky Luke khác nhau, xuất bản tại Ấn Độ.

Rõ ràng thị trường xuất bản của Nepal hầu như bị khống chế bởi các nhà xuất bản Ấn. Các nhà xuất bản địa phương chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ, kể cả sách giáo khoa bằng tiếng Nepali cũng in rồi nhập từ Ấn. Không lạ gì thị trường sách của Nepal là cái bóng mờ của Ấn. Nhưng lạ là, mặc dù Lục-kỳ đã trở lại với thị trường Ấn vài năm nay nhưng giới kinh doanh sách ở Nepal không mấy mặn mà với việc nhập Lucky Luke. thậm chí có thể nói là không thèm nhập. Có thể vì giá cao so với túi tiền người Nepal? Có thể do không tương hợp về văn hoá? (Người Nepal không ưa bạo lực, bắn giết… Dù Lục-kỳ không bắn chết ai bao giờ, nhưng tâm lý mà, giống như ba tôi hồi xưa, cứ thấy cao bồi cầm súng là liên tưởng đến bạo lực, chưa cần biết nội dung ra sao.) Trong khi đó, những truyện tranh bạo lực thật sự, kể cả bằng tiếng Nepali do chính hoạ sĩ Nepal vẽ. thì bày đầy trên các kệ sách. Thật là một thiệt thòi cho dân ghiền Lucky Luke ở Nepal!
Thân mến chào các bạn nhân ngày First News mang Lucky Luke trở lại Việt Nam. Chúc các bạn có những chuyến phiêu lưu thú vị cùng Lục-kỳ nói tiếng Việt của chúng ta!
CAO BỒI NP
(Kathmandu, Nepal)