Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử Nepal. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử Nepal. Hiển thị tất cả bài đăng

15 tháng 4, 2013

CHÚC MỪNG NĂM MỚI BANGLADESH-NEPAL-ẤN ĐỘ

  NHÂN DỊP NĂM MỚI Ở BANGLADESH-NEPAL-ẤN ĐỘ KÍNH CHÚC CÁC BẠN MỘT NĂM ĐẦY HẠNH PHÚC VÀ NIỀM VUI!


 

Mình đang cố gắng viết chi tiết về "Tết" ở Nam Á, mong các bạn đón xem. 

7 tháng 4, 2013

TRANG ĐIỂM VÀ TRANG SỨC CỦA PHỤ NỮ ẤN ĐỘ

THƯ GIÃN CUỐI TUẦN:

   Mình vốn "favour" vẻ đẹp của phụ nữ Ấn. Lúc mới lớ ngớ đến Ấn Độ và Nepal, mình chưa hiểu biết gì về phong tục tập quán của người ở Tiểu Lục địa cho nên mặc dù cái thằng họa sĩ mê sắc đẹp trong mình cứ háo hức muốn chiêm ngưỡng vẻ mặn mà của người đẹp miền Bắc Ấn, nhưng cứ phải lấm lét vì sợ vi phạm những điều cấm kỵ của phong tục địa phương trong việc giao thiệp với người khác giới. Không khéo có thể bị chồng hay người thân của họ rượt mà đập cho một trận thì xúi quẩy cả đời hi hi... Cho nên mình cố gắng tìm hiểu các "chỉ dấu" để nhận biết đâu là một phụ nữ Ấn đã kết hôn (các chỉ dấu này cũng có thể áp dụng cho cả Nepal).
  Các kiểu trang điểm và trang sức sau đây dành cho các phụ nữ đã kết hôn, không chỉ tôn thêm nét đẹp của họ mà còn là những dấu hiệu quan trọng đánh dấu một cuộc đời mới của người phụ nữ.
  He he mời các bác "háo sắc" ghi nhớ 16 dấu hiệu này để .... thận trọng khi tiếp xúc vì họ là người đã có chồng....

  Đầu tiên, họ sẽ mặc chiếc sari màu đỏ, và ...


29 tháng 3, 2013

CẶP ĐÔI HOÀN HẢO CỦA THẦN THOẠI ẤN ĐỘ



THẤY VẬY CHỚ HỔNG PHẢI VẬY : BÀI 2

LỜI DẪN: Jade là một chuyên gia về Trí thông minh nhân tạo (Artificial Intelligence) từ Singapore đến Nepal để nghiên cứu các văn bản cổ đại ở đây. Cô được Lasta, nữ sĩ quan tình báo Nepal dưới vỏ bọc một Chuyên viên Quan hệ công chúng của một tập đoàn lớn, hướng dẫn thăm viếng các di tích cổ của Nepal... 
CHƯƠNG 16

      Lasta chỉ một cái đền nhỏ, “Đấy là Đền Shiva-Parvati.” Cô dắt tay Jade đi đến ngôi đền ấy.
  Trên các vì kèo và tường của ngôi đền này trang trí các bức chạm gỗ gợi tình (Erotic scenes), mô tả các lạc thú của tình yêu. Jade thẹn đỏ mặt khi nhìn thấy các hình ảnh ấy. Cô nghĩ thầm – “Sao họ có thể làm như thế? Trang trí một nơi thờ phượng tôn nghiêm với các cảnh từ Kama Sutra… Không thể tưởng tượng được!”
Đền Shiva-Parvati trong khuôn viên quần thể khu đền Pashupati thiêng liêng nhất của Hindu Nepal

 
Các hình chạm khắc gợi tình (erotic) của đền Shiva-Parvati

Xin bấm vào hình để phóng to lên




   Như hiểu ý Jade, Lasta liền giải thích, “Đừng hiểu nhầm, cô bạn của tôi ơi. Những bức điêu khắc gỗ này không làm ô uế ngôi đền này đâu. Chúng là những kiệt tác tôn vinh những tình nhân vĩ đại của loài người, những vị thần Sáng Tạo và Hủy Diệt của vũ trụ, Shiva và Parvati. Chúng không phải là những hình ảnh “con heo” 3D đâu, mà chính là những biểu tượng của sự hợp nhất các yếu tố Âm và Dương trong vũ trụ theo Mật tông Hindu. Chúng chỉ xuất hiện ở những ngôi đền của, hoặc liên quan đến Shiva và Parvati-Những vị thần của sự sáng tạo và hủy diệt, yêu thương và hy sinh. Những bức chạm khắc này mô tả triết lý của Vòng Sinh-Tử vô cùng tận.”


   Jade vô cùng ngạc nhiên trước những kiến thức thâm sâu của cô gái còn rất trẻ này.
   Cô gái Nepal liền kể cho Jade nghe chuyện tình của Shiva và Parvati, một trong những chuyện tình cảm động nhất của loài người.
  “Xưa kia, thần Daksha có một cô con gái xinh đẹp tên là Sati. Daksha mong có một chàng rể quý đẹp trai, danh giá hơn là anh chàng lông bông Shiva hay lê la cùng với bọn nghèo khổ. Tuy nhiên, trái với ước nguyện của cha mình, Sati đã trao cho Shiva trái tim mình ngay từ lần gặp đầu tiên bất kể vẻ ngoài kinh khiếp của chàng. Anh ta có làn da sạm nắng, tóc dài chấm vai, quấn một tấm khố bằng da hổ, tay cầm một cái chĩa ba và một cái trống damru. Một con rắn hổ mang quần trên cổ anh ta như một vòng đeo sống động. Khi Sati đến tuổi cập kê, theo phong tục, Daksha tổ chức một buổi lễ gọi là Swayamvara cho con gái yêu (Swayamvara= buổi lễ chọn chồng cho các cô gái). Daksha mời tất cả các vị thần trai trẻ xinh đẹp đến dự để Sati chọn, nhưng cố tình không mời Shiva. Sati lướt mắt tìm khắp nơi mà không thấy Shiva, cô liền khấn nguyện và tung vòng hoa lên trời. Vòng hoa bay lượn trên không trung và đáp xuống choàng vào cổ anh chàng Shiva đang ngủ vùi bên một đống tro sau một đêm say sưa hát hò cùng bè bạn. Daksha cay cú lắm nhưng đành phải gả Sati cho Shiva. Chàng đưa nàng về ngọn núi thiêng Kailash, lãnh địa của chàng. 
 
Shiva và Sati
Vẫn còn oán ghét chàng rể điên điển nên vào một dịp lễ hội khác Daksha cố tình không mời Shiva đến dự. Sati phải về dự lễ một mình. Trong lúc hội hè tưng bừng Daksha lại buông lời sỉ nhục Shiva trước mặt tất cả các vị thần. Để bảo vệ danh dự của chồng, Sati nhảy vào đống lửa thiêng tự sát. (Đấy là nguồn cội của phong tục “Sati” của đạo Hindu. Theo phong tục này người vợ tự thiêu sau cái chết của chồng để bày tỏ sự chung thủy-Chúng ta không phán xét ở đây chỉ ghi nhận lại lịch sử và phong tục- NP). 
Sati tự thiêu
 


Shiva bồng xác Sati chạy cuồng loạn khắp nơi
 Đau buồn vô hạn trước cái chết của người vợ yêu, Shiva mất trí. Ông bồng xác vợ tuôn chạy cuồng dại khắp nơi làm cho mặt đất chấn động, đe dọa tới sinh mạng của muôn loài. Để cứu thế giới, thần Vishnu liền hóa phép cắt thi hài của Sati thành nhiều mảnh rơi xuống nhiều nơi trên đất Ấn, Tuyệt vọng, Shiva lầm lũi quay về ẩn cư trên núi Kailash. Sati sau đó tái sinh làm con gái của thần núi Himavan (Himalaya) với tên Uma họ là Himavati, nhưng thường được biết đến với mỹ danh Parvati (nghĩa là vô tội, thánh thiện). Kiếp này Parvati cũng lại yêu Shiva vì số phận của họ đã đan bện vào nhau. Tuy thế, Shiva đã chọn một đời sống ẩn dật, tịnh khẩu, không tiếp xúc với người ngoài. Chàng suốt ngày ở trong hang đá đắm chìm với tình yêu vô vọng dành cho Sati. Trong khi đó, cô gái xinh đẹp con gái của thần núi Himalaya lại từ chối tất cả các lời cầu hôn của các chàng trai, giữ vẹn lòng chung thủy với người duy nhất mà cô yêu từ kiếp trước. Cô chờ đợi Shiva hết năm này sang năm khác và cầu nguyện sẽ được cùng chung sống với người yêu một lần nữa. Parvati sau đó bỏ vào rừng sống đời một đạo sĩ Yogi trong khu rừng bên cạnh hang đá của Shiva. Hàng ngày nàng vào hang quét dọn sạch sẽ, trang hoàng hoa rừng khắp hang đá nhưng thủy chung Shiva vẫn không để mắt tới bất cứ ai. Thần tình yêu Kamadeva (người tương truyền đã ban Kama Sutra cho dân Ấn) muốn giúp Parvati nên lẻn vào hang dùng cánh cung bằng cây mía bắn một mũi tên tẩm mật vào người Shiva. Shiva mở bừng con mắt thần giữa trán thiêu Kamadeva ra tro. Họ sẽ mãi ở cạnh nhau mà không bao giờ gặp nếu các vị thần không kéo đi khuấy Biển Sữa (Tích khuấy Biển Sữa xin xem ở đây) làm chất độc Halahala trồi lên đe dọa đến toàn bộ vũ trụ. Chỉ có một mình Shiva mới có thể cứu chuộc thế giới (Tích Shiva cứu thế giới xin xem CHÚ THÍCH ở cuối bài này). Khi ấy Vishnu đã mang Parvati đặt trước mặt Shiva để đánh thức ông khỏi cơn trầm uất. Mặt đối mặt, họ nhận ra rằng mỗi người là một nửa của nhau và từ khoảnh khắc ấy, không gì có thể chia cắt họ được nữa. Với sức mạnh của tình yêu (chỉ sự hợp nhất toàn bộ các yếu tố và năng lượng của vũ trụ- NP), Shiva đã đánh bại thế lực hắc ám và cứu được thế giới. Khi cả hai tái hợp cùng nhau, sức mạnh tình yêu của họ đã phục sinh Kamadeva từ đống tro tàn…”
 
Shiva và Parvati
    “Ô, đây là một chuyện tình kỳ diệu nhất mà mình từng được nghe,” Jade thở dài. “Ước gì mình cũng có được một tình yêu như thế…”
     
 Lasta tiếp tục kể:” Cặp đôi thần thánh này đã cứu thế giới không chỉ lần ấy mà còn nhiều lần sau này nữa. Lần nọ có một con quỷ hung bạo tên là Rakta Veeja (nghĩa là Hạt-Giống-Máu) đe dọa thế giới. Mỗi một giọt máu của nó rơi xuống chạm mặt đất sẽ biến thành hàng ngàn con quỷ con hung bạo giống hệt như nó. Không ai và không một vị thần nào có thể tiêu diệt được lũ quỷ sinh sản không ngừng ấy. Durga (Durga là một hóa thân khác của Parvati trong hình tướng nữ chiến binh cuồng nộ) nổi cơn thịnh nộ. Và từ con mắt thứ ba giữa trán của nữ thần xẹt ra một nữ thần da đen thui, tóc dài bay tung tõa và có bốn tay. Nữ thần này cầm  một thanh kiếm sắc, tay khác cầm một nắm đầu quỷ mới bị chặt, cổ đeo xâu chuỗi cũng bằng các đầu lâu quỷ và mặc một cái váy làm bằng các cánh tay bị chặt của quỷ. Mắt bà long sòng sọc, đỏ rực như than hồng. Đó chính là Kali (Sanskrit là Kaalaratri – Nữ thần đen như bóng đêm. Thường gọi là Kali nghĩa là ĐEN). Trông thấy bọn quỷ con, Kali gầm lên xông vào bọn chúng và chém như cắt rạ. Cái lưỡi của Kali thè dài ra hứng lấy tất cả những giọt máu mà Rakta Veeja tung xuống đất, chính vì vậy mà dừng lại được sự sinh sản ra bọn quỷ con. Cuối cùng chỉ còn lại mỗi mình Rakta Veeja, Kali chặt đầu con quỷ này và ăn sống nuốt tươi nó tránh để máu của nó có cơ hồi sinh trở lại. Sự khủng khiếp của cuộc chiến, cùng với lượng máu đầy chất độc của Sakta Veeja làm Kali mất tự chủ, hóa điên và nhảy múa cuồng loạn. Mặt đất rung chuyển dưới từng bước chân của vị nữ thần hung tợn và toàn bộ vũ trụ có nguy cơ bị tàn phá. Lần này đến lượt Shiva. Ông liền nằm xuống dưới chân Kali chịu đựng các cú giẫm đạp của bà cho đến khi bà kềm chế được cơn thịnh nộ. Chính vì thế, bạn sẽ thấy các nghệ sĩ mô tả Kali trong hình thức một nữ thần đen nhẻm cầm một hoặc một nắm đầu lâu, lưỡi thè lè ra khỏi miệng và dẫm lên thân thể một người đàn ông.”


Nữ thần Kali

 ********************************************
CHÚ THÍCH: lễ hội Maha Shivaratri (Đêm vĩ đại của Shiva), là lễ hội quan trọng nhất của tín đồ Hindu theo phái Shaivism (phái này thờ thần Shiva như vị thần tối cao, trong khi phái thứ hai là Vaishavism thì tôn thờ Vishnu như chúa tể vũ trụ) diễn ra vào ngày trăng non của tháng Falgun theo lịch Ấn Độ (khoảng cuối tháng Hai đầu tháng Ba Tây lịch). Hàng triệu tín đồ Hindu từ khắp các nước Ấn Độ, Bangladesh, Malaysia, Mỹ, châu Âu,… hành hương về địa điểm linh thiêng nhất của Hindu giáo ở Nepal: ngôi đền thiêng Pashupati ở Kathmandu.


Thần Shiva nuốt Halahala để cứu muôn loài.
Theo thần thoại Hindu, có một lần thế lực hắc ám đe doạ huỷ diệt vũ trụ dưới hình thức Halahala (chất tối độc trồi lên khi các vị thần khuấy đảo Đại dương Sữa huyền thoại để tìm thuốc trường sinh – hạnh phúc). Với tư cách là Người bảo vệ vũ trụ, thần Shiva đã nuốt chửng chất độc ấy để cứu tất cả muôn loài. Chất độc bỏng cháy cổ họng Shiva và làm thân thể Ngài lạnh giá. Ngài chạy băng trên những ngọn núi tuyết của Himalaya để làm dịu nó đi. Dừng chân tại một cánh rừng, những thợ săn thấy Ngài run rẩy vì lạnh nên đã vội vàng chạy đi gom củi khô, đốt lên một đống lửa to để sưởi ấm cho Ngài.
Ganga (nữ thần sông Hằng) đã mang nguồn nước tinh khiết từ thượng nguồn của các dòng sông để hạ nhiệt cho cổ họng của Shiva. Nhưng vẫn chưa đủ. Cho đến khi thần Chandra (mặt trăng) chui vào trong mái tóc dài rậm của Shiva giải toả sức nóng đang nung đốt trong đầu và luồng hơi lạnh giá trong cơ thể Ngài. Sau những giây phút “xuống địa ngục rồi lên đỉnh”, Shiva vô cùng phấn khích và bắt đầu hân hoan nhảy múa vũ điệu tandawa nritya.
Chính vì thế, ngày trăng non ấy được gọi là Maha Shivaratri để kỷ niệm ơn cứu mạng của Shiva với muôn loài, còn khu rừng ấy nay là khu vực toạ lạc ngôi đền thiêng Pashupati (tên gọi cổ và nguyên thuỷ của Shiva, nghĩa là Người bảo vệ muôn loài).

25 tháng 3, 2013

YẾU TỐ ÂM DƯƠNG TRONG MẬT TÔNG HIMALAYA


THẤY VẬY CHỚ HỔNG PHẢI VẬY : BÀI 1

LỜI DẪN: xin trích dịch lại đây vài đoạn trong bản thảo cuốn sách mà mình sắp xuất bản. Sách viết bằng tiếng Anh nên phải dịch lại he he... vì thế giọng văn chắc chắn là không thuần Việt rồi, mong các bạn thông cảm!

Tạm đặt tên cho đoạn này: YẾU TỐ ÂM DƯƠNG TRONG MẬT TÔNG HIMALAYA
 (trong sách đây là chương Ba, không có tên)

CHƯƠNG BA

 
Raj đưa cho Don mảnh giấy mà ông vừa vẽ trên đó, “Cậu có biết cái này là cái gì không?”
Don nhìn lướt qua tờ giấy, trên đó có một hình vẽ ngôi sao sáu cánh
 “Đừng nói với tôi đó là Ngôi sao David mà Dan Brown đã đề cập trong quyển Mật mã Da Vinci nha…” Don cười. Nhưng khi thấy vẻ mặt nghiêm túc của Raj, anh vội vàng nói, “Xin lỗi! Tôi nói đùa…”
  Raj gật đầu, “Không sao. Đấy thực sự là Ngôi sao David, biểu tượng của Do thái giáo và cộng đồng Do thái. Tuy nhiên, nó cũng được sử dụng bởi đạo Hồi, Thiên chúa giáo và các tôn giáo Đông phương khác. Trong đạo Hồi, nó được gọi là Khatem Sulayman-Con dấu của Solomon và Najmat Dawuud-Ngôi sao David. Rất nhiều thánh đường Hồi giáo trang trí ngôi sao sáu cánh này. Anh cũng đã biết rằng, Thiên chúa giáo cũng thờ phụng ngôi sao này.”
   Ông hoàng Nepal ngừng lại, nhấp một ngụm trà xanh, đoạn tiếp tục với một giọng nói chậm rãi, rõ ràng, “Tuy nhiên, ở Lục địa India, trước khi trở thành ngôi sao sáu cánh, biểu tượng này được sắp xếp như là hai tam giác chạm vào nhau như thế này…” Raj vẽ một hình khác:  “”.

7 tháng 3, 2013

VỀ VỚI NGƯỜI THARU

NGÀY 1: dự trù mãi đến khi kết thúc chuyến đi mới post bài vì phải đi vào các làng Tharu hẻo lánh, không có net. Nhưng đi được 400km đến Butwal thì hết xăng nên phải ở lại đây một đêm. May KS có net nên tranh thủ xài ké post vài hình đã chụp bữa nay.

Kế hoạch là khởi hành sớm nhưng hôm nay các đảng chính trị người Madeshi bandha nên mãi tới 8 giờ mới xuất phát được. Kinh nghiệm ở các nước Nam Á là khi có bandha các bạn đừng nên ra đường sớm dù bọn tổ chức nào cũng nói là cho phép xe của phóng viên, khách du lịch nước ngoài, cấp cứu lưu thông. Đừng tin! Sáng nay một chiếc xe của đài truyền hình đi làm tin buổi sáng đã bị tấn công. Vì thế mà dù xe mình có dán "bùa" PRESS phía trước mình vẫn phải chờ vài tiếng đồng hồ cho mấy cái đầu của bọn tiểu yêu nguội bớt.

Chúa nhật này (10/03/2013) là đại lễ hội quan trọng nhất trong năm của Shaivism (một tông của Hindu giáo tôn thờ thần Shiva; tông còn lại là Vaishnavism thờ thần Vishnu). Từ mấy ngày nay, các SADHU (ông đạo Hindu) từ khắp nơi ở Nepal và India lũ lượt kéo về Pashupatinath-ngôi đền thiêng nhất của Hindu ở Kathmandu để tham dự lễ hội này.

3 tháng 3, 2013

NEPAL STYLE

Giàu có và sử dụng tài sản của mình như thế mới xứng đáng là Đại Gia, mới đáng kính phục. Kaiser SJB Rana, theo mình là nhân vật vĩ đại nhất của tộc họ Rana Nepal và là “Player” đáng ngưỡng mộ nhất của Nepal.

   Mình nghĩ mãi không ra cái tựa đề cho bài này. Chủ đề là kể về phong cách “chơi” (tiêu xài-spend, sưu tập-collect, lối sống- style…) của những nhân vật nổi tiếng người Nepal, nổi tiếng ở đẳng cấp thế giới. Mới đầu định lấy tựa “Dân chơi Nepal”, nhưng thấy phàm phu, có mùi giang hồ, và “hôi sữa” của mấy nhóc thiếu gia ngày nay; vì các nhân vật đề cập trong bài này toàn là giới thượng lưu, tinh hoa (elite) của Nepal xưa. “Chơi kiểu Nepal” càng không ổn vì quá thô tục. May, cái video clip làm mưa làm gió khắp thế giới của anh chàng ca sĩ Hàn Quốc Psy đã giúp mình một cái tựa thích hợp “Nepal Style”.
Mẫu Roll Royce Phantome III mà ông Kaiser SJB Rana đưa về Kathmandu Nepal vào thập niên 1930

    Năm 1973, cái xe Mercedes đời mới nhất của ông hoàng Vijay SJB Rana về đến Kathmandu, Nepal. Ngay lập tức nó trở thành “hot girl” được mọi người trầm trồ khen ngợi và thu hút mọi sự chú ý mỗi khi xuất hiện. Cũng thời điểm ấy, một “ông hoàng” xe hơi lặng lẽ rời khỏi Nepal. Ông Vijay luôn tiếc nuối khi kể về sự kiện này. “Nếu biết họ bán nó đi, thì dù có bán cả gia sản ông cũng sẽ làm để giữ nó lại ở Nepal. Chiếc xe ấy là một phần lịch sử của Nepal, một vật chứng và là niềm hãnh diện cho đất nước trên núi này.”
  “Nó” là chiếc Roll Royce Phantom III nổi tiếng.

14 tháng 1, 2013

VẺ ĐẸP THARU

Hôm nay mình dự lễ hội Maghi (Tết) của người Tharu.
Tharu là tộc người có những bộ trang phục sặc sỡ và những bộ trang sức cầu kỳ nhất Nepal.
Xin mời các bạn xem qua một vài hình ảnh mình "chộp" được hôm nay. Đáng yêu quá phải không?
Tim mình giờ này vẫn còn nhảy thình thịch đây này....
 
Xin bấm vào các hình để phóng to lên!



13 tháng 1, 2013

NHỮNG BÀI VIẾT CŨ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN HỌ THÍCH-CA

 1-Dòng tộc và quê hương Đức Phật

Lịch sử » Đức Phật
23/03/2008 21:21 (GMT+7)

 http://www.giacngo.vn/lichsu/ducphat/2008/03/23/52C450/


2- LINKS: Các bài về họ Sakya http://nguyenphunepal.blogspot.com/search/label/Sakya

3- LINK: Bảo tháp Ramgram 1: http://nguyenphunepal.blogspot.com/2012/05/ramgram-bao-thap-nguyen-thuy-luu-giu-xa.html
4- LINK: Bảo Tháp Ramgram 2:  http://nguyenphunepal.blogspot.com/2012/06/ramgram-bao-thap-nguyen-thuy-luu-giu-xa.html  
5- LINK: Chudakarma-Lễ Xả nghiệp Xuất gia của họ Thích-ca: http://nguyenphunepal.blogspot.com/2010/09/chuda-karma-le-xa-ngiep-xuat-gia-mot.html

 

LTS: Tìm về quê hương Đức Phật là khát vọng lớn của nhiều nhà nghiên cứu và học giả, xưa cũng như nay. Qua khảo sát bằng thực địa cũng như dựa vào những chứng tích, truyền khẩu của dòng họ Shakya hiện nay đang sống ở Nepal, anh Nguyễn Phú đã cung cấp một huớng đi mới trong việc tìm hiểu về quê hương cũng như dòng họ của Đức Phật. Việc lội ngược dòng lịch sử gần ba ngàn năm để tìm lại giá trị văn hóa cổ xưa mà hiện nay đã mang tính toàn nhân lọai là một việc làm ý nghĩa và rất đáng trân trọng. Nguyệt san Giác Ngộ xin giới thiệu bài viết được gởi về từ thủ phủ Kathmandu, kinh đô của Nepal.
  Nguồn gốc Kapilavastu và vương tộc SHAKYA
Nguồn gốc nguyên thủy của vương tộc Shakya bắt nguồn từ Kosala, một vương tộc thuộc dòng Aryan cai trị vùng đất ở chân dãy Terai. Câu chuyện bắt đầu từ vua Okkaka. Vua Okkaka thuộc dòng dõi mặt trời, tông tộc Ikshanku. Sau khi người vợ đầu tiên chết, nhà vua cưới một người vợ khác. Hoàng hậu trước đó đã sinh cho nhà vua chín người con (4 trai, 5 gái). Khi hoàng hậu thứ hai sinh hạ một hoàng nam, vì muốn giành lấy vương quốc cho Jayantu con của mình đã gây áp lực với nhà vua để ông phải đưa các con của người vợ trước đi xa. Vua Okkaka vì quá si mê hoàng hậu nên đành phải chấp nhận yêu cầu của bà ấy. Các vương tử: Ulkamukha, Karandu, Hastinika, Sinisura, và các công chúa: Priya, Supriya, Ananda, Vijita, Vijitasena được lệnh nhà vua phải rời khỏi vương quốc Kosala vào sống nơi rừng sâu.


Những vương tử và công chúa cành vàng lá ngọc rời khỏi kinh đô Saketa tiến về phía dãy Himalaya. Trải qua bao vất vả, cực nhọc họ đến một vùng đất là nơi ẩn tu của vị ẩn sĩ Kapilamuni. Được ẩn sĩ cưu mang và cho phép, họ đã kiến lập nên một vương quốc và đặt tên là Kapilavastu (hoặc Kapilanagara) để vinh danh ẩn sĩ Kapilamuni.
Thời gian cứ trôi, những hoàng tử và công chúa của xứ Kosala đi đày đã đến tuổi lập gia đình. Bởi tập tục kết hôn với người cùng dòng máu là bình thường thời bấy giờ, tám anh em kết  hôn với nhau và tạo ra tông tộc Shakya (tập tục này ngày nay một số gia đình họ Shakya vẫn còn giữ, tức là chỉ kết hôn với người mang họ Shakya). Vị công chúa lớn tuổi nhất là Priya được bổ nhiệm làm mẫu hậu, còn hoàng tử Ulkamukha được bổ nhiệm là quốc vương đầu tiên của vương quốc non trẻ Kapilavastu.
Một ngày nọ, Okkaka -nhà vua xứ Kosala, nghe kể về cuộc phiêu lưu của những đứa con của mình. Ông quá kích động và kêu lên rằng: “Sakya-Vata-bho-Kumara”(nghĩa là: những đứa trẻ phiêu lưu đã có kết thúc tốt đẹp). Từ câu nói này, về sau, người ta thường dùng tên Sakya (Shakya) để chỉ vương quốc hoặc dòng tộc này, còn Kapilavastu là kinh đô của vương quốc đó.
Theo nghiên cứu của Giáo sư Oldenberg, Kapilavastu - vương quốc của những người Shakya, là một tiểu quốc cộng hòa thuộc phạm vi cai quản của một nhà vua lớn hơn ở Ấn Độ, cụ thể là Kosala. Như ta đã thấy từ quá trình hình thành của nó, Kapilavastu đã bầu chọn người cai trị  một từ trong các thành viên hoàng gia và sự thần phục Kosala là tất nhiên vì đó là vương quốc tổ tiên của họ.
… Ngành kinh tế chính của Kapilavastu là nông nghiệp. Những làng mạc quần tụ quanh những cánh đồng lúa và gia súc thì chăn nuôi ở khu vực cạnh rừng. Nơi đây cũng có những người thợ thủ công: thợ mộc, thợ rèn, thợ gốm,…, tầng cấp Brahmin (Bà la môn). Có một vài cửa hàng nhưng không nghe nói có thương gia và nhà băng. Những đường phố hẹp chật ních voi, ngựa, xe và người. Việc hành chính và tư pháp của vương quốc được giải quyết công khai tại Hội trường công cộng (Mote Hall - Sansthagara). Nhà cửa của kinh thành quay mặt ra đường được trang trí bằng các ban công và các tháp lầu. Hoàng cung được xây dựng kiên cố với các cổng lớn giữa các bức tường và tháp canh cao vút. Toàn bộ kinh thành được bao quanh bởi một cái hào, có chỗ có đến hai hào, một hào bùn, một hào nước. Những cung điện rộng lớn và cầu kỳ bằng gỗ và gạch là nơi diễn ra những sinh hoạt xa hoa của cung đình...
Đó là những mô tả của Giáo sư Rhys Davis về nước cộng hòa Kapilavastu của vương tộc Shakya qua những cứ liệu khảo cổ thu thập được về địa danh này.
                     Vương tộc Koliya - Bên ngoại thái tử Siddhartha
Nguồn gốc của vương tộc Koliya bắt đầu gần như cùng thời điểm và con người với vương tộc Shakya.
Chúng ta đã biết  Priya là mẫu hậu đầu tiên của Kapilavastu. Tuy nhiên, một thời gian sau cô bị nhiễm bệnh hủi. Cô rời bỏ vương quốc và đi đến sống trong một cái hang cọp (vyagghapatha) trong khu rừng dưới chân núi phía Đông Bắc Kapilavastu. Ngẫu nhiên, Rama - vua của vương quốc Banaras (Ba La Nại) cũng bị nhiễm bởi cùng một chứng bệnh ấy và đến sống tại khu rừng gần cái hang mà Priya ở. Một hôm Rama đến ngồi dưới gốc cây Kolan cổ thụ trong khu rừng và kỳ diệu thay chứng bệnh của chàng đã biến mất. Khi gặp Priya trước cái hang cô ở, Rama chỉ cho cô cái cây huyền diệu và cô cũng được khỏi bệnh sau khi ngồi xuống dưới gốc cây ấy. Sau khi khỏi bệnh, hai người kết hôn với nhau, sinh hạ 32 người con và tạo lập nên thành phố Devadaha ở phía Đông biên giới Kapilavastu. Từ đấy đã hình thành nên họ tộc Koliya. Vương quốc này được biết đến với nhiều tên gọi như: Devadaha,  Vyaghrapura, Kolinagara, Ramagrama. Mỗi cái tên gắn liền với một sự tích tạo lập nên vương quốc. Devadaha (Thành phố thần thánh) là để tôn  vinh các vị thần nơi họ tạo lập nên vương quốc mới. Vyaghrapura là tên cái hang cọp mà hoàng hậu Priya đã ở. Kolinagara là để vinh danh cây thần Kolan đã chữa khỏi bệnh cho nhà vua và hoàng hậu. Còn Ramagrama chính là để vinh danh nhà vua Rama - người đã tạo lập nên vương quốc.
Do có cùng nguồn gốc nên vương tộc Shakya ở Kapilavastu và vương tộc Koliya ở Devadaha đã có những mối quan hệ hôn nhân mật thiết. Nhiều đời giữa  hai vương tộc đã thành thông gia. Đến thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, phụ vương Ngài đã cưới cả hai chị em công chúa Mayadevi và Prajapati, còn chính Ngài cũng đã kết hôn với công chúa Yasodhara tuyệt đẹp của vương tộc Koliya. Việc cai trị ở Devadaha cũng theo mô hình của Kapilavastu, nhưng Koliya có đến hai trung tâm quyền lực - một ở Devadaha, một ở Ramagama.
Chúng ta đều biết rằng sau khi Đức Phập nhập Niết bàn tại Kusinaga, xá lợi của Ngài được chia làm tám phần cho tám vị quốc vương. Vương quốc Ramagrama cũng được một phần trong số ấy và đem về lập tháp thờ tại Devadaha.
Huyền thoại kể rằng khi Đại đế Ashoka  xây dựng 84.000 bảo tháp thờ Phật, ông đã cho khai quật các ngôi tháp của các vương quốc được phân chia xá lợi Phật đầu tiên để lấy xá lợi chia lại cho 84.000 bảo tháp mới. Ông đã khai mở hết bảy tháp. Tháp cuối cùng là tháp thờ xá lợi Phật của vương quốc Ramagrama. Khi ông đến tháp ấy có một con rắn khổng lồ nằm cuộn tròn quanh bảo tháp. Đó là Thần Rắn Naga. Sau đó thần rắn biến thành hình người và mời Đại đế Ashoka xuống thăm cung điện của Naga dưới đáy hồ bên cạnh bảo tháp. Sau khi tiếp đãi hoàng đế theo nghi lễ, Naga trình bày cho hoàng đế thấy những vật dụng thần thánh mà Naga dùng hàng ngày để cúng dường xá lợi Phật cầu mong tiêu trừ nghiệp chướng. Rắn thần chấp nhận cho hoàng đế khai mở bảo tháp để lấy xá lợi với điều kiện phải cúng dường hàng ngày tốt hơn Naga đã làm. Ashoka nghĩ rằng không thể làm hơn những gì Naga đã làm nên vui vẻ bỏ qua ý định khai mở bảo tháp lấy xá lợi.
Bộ Đại sử của Sri Lanka (Mahavamsa) lại kể rằng ngôi tháp Ramagrama nằm bên bờ một con sông và đã bị nước xoáy phá hủy. Chiếc bình đựng xá lợi Phật bị cuốn trôi ra biển. Nó được thần Rắn Naga tìm thấy và thờ phụng trong một ngôi bảo tháp. Vào thời vua Dutthagamini (161-137 trước Tây lịch), chiếc bình đựng xá lợi Ramagrama đã được vị Thánh Tăng Sonuttara dùng thần thông thu được và đưa về thờ phụng ở Mahathupo tại Sri Lanka(?).
“Nước Lam Ma bây giờ đã hoang phế không còn dấu vết gì, thành ấp đã đổ nát xiêu vẹo, người dân thưa thớt. Thành xưa ở phía Đông Nam có một bảo tháp lợp ngói cao gần 100m. Ngày xưa, sau khi Đức Như Lai nhập diệt, vua của nước này đến phân chia xá lợi mang về nước của mình rồi ra sức tôn tạo kiến thiết nên. Đây là nơi rất linh thiêng, có ánh sáng phát ra từ tháp. Bên cạnh bảo tháp có một ao nước trong có một con rồng cư trú nơi đó. Mỗi lần con rồng ra đi nó biến thành con rắn. Phía bên phải cũng có một bảo tháp" (Đại  Đường Tây Vực ký - Huyền Trang).
Đó là mô tả của ngài Huyền Trang khi ngài đến chiêm bái vương quốc Ramagrama vào thế kỷ thứ VII sau Tây lịch.  Cả hai ngài Pháp Hiển (thế kỷ thứ V) và Huyền Trang đều thấy được ngôi tháp Ramagrama còn tồn tại.
Năm 1898, Tiến sĩ Hoey căn cứ theo kinh sách đã tìm lại được kinh thành Devadaha. Nó nằm ở chân núi Terai, phía Tây Nepal. Năm 1964, Tiến sĩ S.B Deo xác định được vị trí tháp Ramagrama bên bờ sông Jharai. Nơi đó có một gò đất cao chừng 9m và đường kính chân gò là 21m, với chân móng bằng gạch nung. Các học giả và nhà khảo cổ đã đo đạc và so sánh những khoảng cách đã được nêu trong các tài liệu của các ngài Pháp Hiển và Huyền Trang và công nhận tính chính xác của các nghiên  cứu của Tiến sĩ S.B Deo.
Ngày nay, khách hành hương muốn viếng thăm Ramagrama và quê ngoại của Đức Phật thật dễ dàng. Nếu xuất phát từ Lumbini, chúng ta sẽ đi đến Bhairahawa 25km, từ đây chúng ta đi tiếp 25km nữa đến thành phố Butwan. Đây là một thành phố lớn ở miền Tây Nepal, nằm vắt ngang quốc lộ Mahendra. Tại Butwan chúng ta theo đại lộ Mahendra về hướng Đông (hướng về thủ đô Kathmandu)  chừng 10km, bên tay phải có một con đường rải đá dăm dẫn đến Devadaha kinh đô của Koliya và dòng sông Rohini nổi tiếng. Nếu theo quốc lộ đi quá lên chừng 10km nữa, chúng ta gặp một đường nhựa nhỏ dẫn đến thị trấn Parasi, tháp Ramagrama ở gần ngay đó. Tuy có nhiều huyền thoại quanh nó nhưng người ta vẫn tin rằng 1/8 xá lợi của Đức Phật vẫn còn trong ngôi tháp ấy và vẫn đến cúng dường thật thành kính.
Tại cổng chào của Devdaha (Devadaha), chính quyền địa phương đã cho xây dựng một công viên nhỏ. Trong công viên có tôn tượng của Đức Phật Thích Ca cao chừng 2m, và lùi sau lưng Ngài một chút là tôn tượng của ngài Sariputa (Xá Lợi Phất). Devdaha có một tinh xá thờ ngài Mayadevi và Prajapati. Tuy nhiên dân chúng địa phương theo Hindu giáo đã đồng hóa các vị với nữ thần Barimalika Devi, người được thờ phụng khắp từ Kashmir đến sông Hằng. Họ gọi hai vị là Bairimai và Kanyamai. Trong tinh xá có hai tượng đá của hai vị. Tượng này đã bị hư hỏng khá nhiều. Đến đây tôi mới khẳng định được rằng tinh xá trong cổ thành Kapilavastu  chính là tinh xá thờ  Đức bà Mayadevi mà ngài Huyền Trang đã kể. Nằm cách 1km về phía Nam tinh xá thờ Đức Mayadevi và Pajaprati là kinh đô cổ Devadaha. Nơi đây còn một trụ đá đánh dấu do Đại đế Ashoka đặt vào năm 249 trước Tây lịch, tương tự như trụ đá ở Lumbini. Cũng giống như trụ đá ở Lumbini và Kapilavastu, trụ đá Devadaha cũng đã gãy đổ. Phần gốc nhô lên chừng tám tấc, phần trang trí đầu trụ đã mất, phần thân vỡ nhiều mảnh.Trụ đá này là một trong những chứng cứ  quan trọng để các nhà khảo cổ xác định vị trí kinh đô Devadaha cổ đại. Những dòng chữ do Đại đế cho khắc trên trụ đá nói rằng đây là nơi sinh của Mẹ của Đức Phật. Tôi được cho xem bản dịch tiếng Anh của những dòng chữ ấy, sơ lược như sau: Đức vua Piyadasi (Ashoka), người được chư thần yêu quý, vào năm thứ 20 trong triều đại của ngài đã đến thăm viếng Devadaha và bày tỏ lòng kính trọng. Bởi vì đây là nơi sinh của mẹ Đức Phật nên Hoàng đế giảm thuế cho làng Devadaha xuống chỉ còn 1/8.
Từ cổng chào của Devdaha về hướng Nam chừng vài km, giữa cánh đồng có một cây đại thụ hùng vĩ. Từ xa đã thấy sắc xanh đặc biệt của lá cây. Cây cao chừng 30m, tỏa bóng mát che rợp chu vi  đường kính 40m. Cành xõa ra từ sát mặt đất. Không ai dám chặt một cành nào của cây ấy vì đây chính là cây thần Kolan và tôn kính gọi đó là "Kotiyamai”. Từ xa xưa, kên kên, đại bàng và voi cũng không dám đến gần cây thần này. Vua Rama và hoàng hậu Priya đã được chữa khỏi bệnh dưới một cây Kolan và tên cây đã thành tên vương quốc của họ. Không ai dám chắc rằng cây Kolan ngày nay có phải là cây Kolan trong huyền thoại hay không nhưng tận đáy lòng tôi tin trong những chiếc lá xanh kia có chứa tứ đại của cây thần Kolan huyền thoại. 
Rời cây thần Kolan, chúng tôi đến chiêm bái tháp Ramagrama. Chúng tôi thắp hương rồi nhiễu quanh tháp chín vòng và niệm danh hiệu Đức Thế Tôn. Tuy chỉ là một gò đất nhưng nơi này là một trong những nơi thiêng liêng nhất của Nepal vì chứa đựng 1/8 xá lợi Phật. Chính các nhà khảo cổ  hiện nay cũng không dám khai mở tháp Ramagrama. Hồ Naga cạnh tháp đã cạn khô có lẽ Thần rắn Naga đã tái sinh kiếp khác hay do công đức cúng dường xá lợi nên đã về cõi vô ưu.
Câu chuyện về dòng họ Shakya của Đức Phật chưa dừng ở thời điểm Vidudhaba hủy diệt kinh thành Kapilavastu và tàn sát tất cả người mang họ Shakya. Một số vương tử đã trốn thoát; một số chạy về Piprava dựng nên kinh đô Kapilavastu mới. Một số đi đến các vương quốc vùng Himalaya và làm vua ở đó. Trong số này, có một nhóm đã dựng nên một thành phố mới gọi là Moriyanagara, nơi họ đã nghe tiếng gáy vang của những con công. Đó là bắt đầu cho một dòng họ mới khai sáng ra triều đại Moriya huy hoàng mà người thứ ba của triều đại trở thành vị  Chuyển luân vương vĩ đại nhất trong lịch sử Ấn Độ: Đại đế Ashoka.
Được biết xa lộ cao tốc Xuyên Á (điểm cuối là TP.HCM - Việt Nam) có một đoạn đi ngang qua Nepal. Đoạn ấy nối vào Quốc lộ Mahendra và ngang qua Butwan. Hy vọng rồi đây khi xa lộ hoàn thành, người Việt Nam có thể đi bằng đường bộ vượt 3.000km đến thăm quê hương Đức Phật để cúng dường những di tích thiêng liêng và xá lợi của Đức Từ Phụ.


(Bài viết có tham khảo tư liệu của  Giáo sư Babu Krishna Rijal - Cục Khảo cổ Vương quốc Nepal, sách của các học giả Hermann Oldenberg,  H.W. Schumann, Từ điển Pali Proper Name, Hồi ký của các ngài Pháp Hiển - Huyền Trang và gia phả của họ Shakya tại Kathmandu).
NGUYỄN PHÚ

 

CHUYÊN ĐỀ LỊCH SỬ NEPAL: HỌ THÍCH-CA Ở KATHMANDU

Quý bạn đọc thân mến,
Cách đây hơn mười năm một "tiếng gọi" (the call) từ Himalaya đã vọng đến tác giả vào một buổi sáng tháng Giêng trong hình thức một làn hơi lạnh giá. Sau đó tác giả đã quyết định lên đường một cách trừu tượng mà không hề biết mình sẽ bắt đầu từ đâu và đi đến đâu. Để chuẩn bị cho chuyến đi này, tác giả đã soạn ra cả một danh sách dài những việc cần làm trong đó có cả việc học những kỹ năng viết lách, quay phim, chụp ảnh... và đã tiêu tốn bốn năm trời dành dụm tiền bạc và học hỏi mọi thứ (kể cả làm phóng viên cho một đài truyền hình để học kỹ năng, nghiệp vụ). Cuối năm 2005, tác giả đặt chân đến Nepal (Kathmandu và Lumbini) một cách bất ngờ không hề có sự chuẩn bị trước trong một chuyến đi độc hành nửa hành hương nửa để cầu siêu cho người mẹ vừa quá cố của mình. Tại đây tác giả đã nhận chân ra "tiếng gọi" vang vọng đến mình 5 năm trước, và chọn xứ sở này làm quê hương thứ hai. "Tiếng gọi" ấy đã tặng cho tác giả một chủ đề nghiên cứu cả đời (life time's subject): The Sakya (Họ Thích-ca).
  Sau 7 năm nghiên cứu, tác giả xin đưa lên đây những thu thập ít ỏi bước đầu của mình về một chủ đề có quá ít người tìm hiểu. Mong các bài viết này nhận được sự quan tâm của các bạn!
  Trân trọng,
  Nguyễn Phú

******************************************************
HỌ SHAKYA Ở KATHMANDU: PHẦN 1

Họ Thích-ca thuộc 18 bahal (tự viện) khắp Kathmandu tập trung cầu nguyện hàng tháng

Kathmandu Valley (Thung Lũng Kathmandu), thủ đô hiện tại của nước Nepal, vốn là một vương quốc nhỏ trong vùng Himalaya với tên gọi từ thời cổ đại (hơn 500 năm trước Công Nguyên) là Nepal-Mandala. Tên Nepal-Mandala bắt nguồn từ vị trí địa lý của thung lũng này với những dãy núi bao quanh giống như những cánh hoa sen trong một đồ hình mandala.
  Rất nhiều người biết đến chi tiết Kathmandu Valley là một mandala, nhưng không mấy người biết đấy là mandala gì... vì Mật tông Hindu và Mật tông Phật giáo có đến hàng vạn mandala. Câu chuyện về Mandala của Kathmandu xin bàn vào một dịp khác.
  Kathmandu Valley chính là nơi cư trú được chính thức ghi nhận của hậu duệ cộng đồng Sakya-Tộc họ đã sản sinh ra một trong những nhân vật nổi tiếng nhất lịch sử thế giới: Sakya Buddha (Đức Phật Thích-ca).
Sakya là viết theo tiếng Sanskrit hoặc Pali; Shakya là theo tiếng Newari-ngôn ngữ cổ đại của người bản địa Kathmandu Valley, cũng từ này phiên âm theo tiếng Hán là Thích-ca. Kể từ đây tác giả xin được phép dùng từ Sakya hoặc Shakya để dễ dàng cho bạn đọc khi tra cứu hay tìm kiếm về tộc họ này tại Kathmandu Valley hay từ các nguồn khác với nguồn Hán-Việt (điều này phát xuất từ kinh nghiệm thực tế của tác giả vì ngoài người Việt ra, chẳng một ai biết đến họ Thích-ca! Cũng như dùng các danh từ riêng theo tiếng nước ngoài không phải vì tác giả sính dùng ngoại ngữ).

  Nguồn gốc của tộc họ Shakya tại Kathmandu có thể truy nguyên về đến tận thời Sakya Buddha còn tại thế. Khi ấy vua Vidudabha của vương quốc láng giềng hùng mạnh Kosala đã tận diệt họ Sakya tại Kapilavastu (thành Ca-tỳ-la-vệ). Tộc họ Sakya mất nước đã phải lưu vong, tản mác khắp bốn phương trời. Một nhóm Sakya đã theo những con đường mòn của giới thương buôn vượt qua dãy núi Terai tìm đến Kathmandu Valley. Tại đây, một hoàng tử Sakya đã kết hôn với công chúa của vua địa phương tộc họ Kirat (tộc họ này thuộc sắc dân Naga sống trải dài từ Himalaya đến tận Việt Nam; người Việt là một nhánh của Naga di cư từ Himalaya- xin viết về chủ đề này trong một bài khác). Cộng đồng Sakya của Kathmandu Valley bắt đầu định cư và định hình, cũng như có ảnh hưởng quan trọng đến lịch sử Kathmandu suốt 2.500 năm nay.
  Cộng đồng Sakya lâu đời nhất thuộc về Chabahil. Theo ngôn ngữ Newari, bahil hay bahal tương đương với vihara của Sanskrit. Tuy nhiên, bahil hay bahal không phải một ngôi chùa hay tu viện (pagoda, monastery) dành cho giới tăng-ni như Phật giáo Bắc tông hoặc Nam tông. Nó là một kiến trúc khép kín với 4 dãy nhà xoay mặt vào một cái sân, trung tâm là một stupa (bảo tháp). 
Mô hình một Bahil
Bahal thì có quy mô lớn với các dãy nhà của tộc họ Shakya bao quanh ba cánh và một cánh dành cho ngôi chùa của họ. Bahil thì quy mô nhỏ hơn, hầu như gói gọn vào một ngôi chùa. Đúng nghĩa, bahil hay bahal là một ngôi nhà sinh hoạt chung của họ Shakya. Họ tụ tập tại đây để cầu nguyện, cúng dường, làm Phật sự hay chỉ đơn giản là sinh hoạt cộng đồng. Bahil và Bahal cũng có tăng ni cư trú để tu tập nhưng họ Sakya không có khái niệm "sư-ni trụ trì". Cho đến ngày nay (thế kỷ 21) họ Shakya vẫn duy trì truyền thống dân chủ cộng hòa của vương quốc Sakya xa xưa ở Kapilavastu. Mỗi cộng đồng có một vị thủ lĩnh (thường là vị cao niên nhất hoặc có uy tín nhất) gọi là Thakali. Thakali sẽ chủ trì các buổi cầu nguyện, cũng như các buổi họp cộng đồng trong đó quyết định sẽ cuối cùng tuân theo nguyên tắc đa số. 
Aarta Man Shakya-Thakali hiện tại của toàn bộ Shakya ở Kathmandu Valley

  Theo lịch sử Kathmandu, có 18 bahal thuộc họ Shakya được xem là chánh tông. Vấn đề chánh tông này xuất phát từ hơn 1000 năm trước, khi các vua trị vì Kathmandu Valley lập ra hệ thống Jati (caste theo tiếng Anh). Thực ra nếu dịch Jati /caste thành từ "đẳng cấp" hoặc "giai cấp" trong tiếng Việt thì chưa chính xác. Jati là hệ thống phân biệt nghề nghiệp; những nghề nào xã hội cần hơn, hàm chứa nhiều chất xám hơn thì được đánh giá cao hơn những nghề làm lụng tay chân hay nghề làm những việc thấp hèn. Trong hệ thống ấy, một số người theo Phật giáo của Kathmandu Valley được xếp vào họ Shakya-nghĩa là người theo đạo Shakya Buddha (giống như pháp danh với họ Thích của Phật giáo Bắc tông). Sự kiện này cùng với việc các bahil và bahal được xây dựng ngày một nhiều (trong đó có một số bahil, bahal không thuộc họ Shakya) đã dẫn đến việc họ Shakya thống nhất nhìn nhận trong toàn Kathmandu Valley chỉ có 18 bahal-bahil chánh tông. Và người của 18 bahl-bahil này mới thuộc họ Sakya chánh gốc.

30 tháng 12, 2012

NGƯỜI GURUNG ĂN TẾT CON RẮN SỚM NHẤT THẾ GIỚI!


Sống ở Nepal sướng vậy đó, ăn Tết hết tháng này sang tháng khác. Năm 2012 chưa chấm dứt mà đã được ăn Tết Con Rắn rồi!
Cũng giống như hầu hết các tộc người miền núi ở Nepal và Tibet, Tết của người Gurung gọi là Lhosar.
Tamu Lhosar mở đầu một năm mới theo Tamu Sambat (âm lịch của người Gurung). Lịch Gurung cũng có 12 con giáp gọi là lohokor với mỗi con giáp là lho (năm) như sau: Garuda (chim thần trong thần thoại Hindu), Rắn, Ngựa, Cừu, Khỉ, Chim, Chó, Nai, Chuột, Bò, Hổ, và Mèo. Chúng ta có thể thấy 12 con giáp này tương ứng với 12 con giáp của người Việt như: Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý, Sửu, Dần, Mẹo. Lhosar năm nay là năm 2597 lịch Gurung rơi vào ngày 15 tháng Push (30/12/2012) đón mừng năm con Rắn. Vậy là có thể coi người Gurung là tộc người mừng Tết Con Rắn sớm nhất thế giới!   

Một làng Gurung trên dãy Himalaya

  Gurung là một tộc người tự gọi họ là Tamu sống ở vùng Trung-Tây Nepal (chủ yếu là vùng núi lưng chừng 2000-3000m của dãy Himalaya), dân số vào khoảng 500 ngàn người, hoàn toàn theo Phật giáo Tibet.
  Trang phục dân tộc của người Gurung cũng đẹp sặc sỡ và độc đáo như bất cứ dân tộc nào ở Nepal. Đàn ông thì mặc bhangra (áo ngắn màu trắng) và kachhad (sà-rông). Phụ nữ thì mặc áo blouse nhung đỏ sậm, đeo trang sức hình đĩa bằng vàng và rất nhiều dây chuyền bằng đá bán quý.  
Trang phục cổ truyền của người Gurung



Ở các làng Gurung, người ta tập hợp tại khoảnh sân rộng giữa làng; ở Kathmandu, người Gurung tập trung ở quảng trường Tundhikhel để ăn Tết. Người Gurung ăn tết ba ngày. Hai ngày đầu diễn ra các cuộc thi cho cánh đàn ông như kéo co, bắn cung trong khi phụ nữ nhảy múa ca hát. Ngày thứ ba thường sẽ trao giải cho những ai thắng các cuộc thi và ăn nhậu tưng bừng khí thế để mừng năm mới. Chính thức là ba ngày nhưng thường thì dân Gurung cũng ăn Tết kéo dài 7-10 ngày (hết mùng như người Việt vậy!). Những ngày này là dịp dân Gurung đi thăm viếng lẫn nhau và tụ tập để ăn nhậu, bài bạc cho vui.


Nhảy múa giữa trời đất với ngọn Fish tail nổi tiếng phía sau

Thi bắn cung

Trang sức của các thiếu nữ Gurung



Nhảy múa là phần không thể thiếu của đời sống người Gurung

Các thầy tư tế Phật giáo cúng lễ với nhạc tôn giáo

Hoa khôi Gurung năm nay

12 tháng 12, 2012

LUMBINI-MÙA SẾU VỀ LÀM TỔ

Cập nhật-Trả lời vắn tắt một số bạn đọc: Sếu đầu đỏ (Sarus Crane) là loài chim đặc hữu ở Lumbini quê hương của 3 vị Phật Sakya, Kanaka Muni và Krakuchanan. Chúng đã sống ở đây hàng nghìn năm (hình khắc trên cột đá Asoka từ năm 250 trước Thiên chúa giáng sinh). Không phải mới về sống ở Lumbini kể từ khi ông Huyền Diệu đến vùng này sau năm 1993 như ông ta kể trong tự truyện "Khi hồng hạc bay về". Chính phủ Nepal, Quỹ Bảo vệ động vật hoang dã và Hội Sếu Quốc tế đều có các dự án bảo tồn loài chim quý này từ trước năm 1993.
                                                               9h 13/12/12 - NP
 .........................................................................................................................................................
 Ngỏ: nhân có bạn đọc nhắc đến SẾU ĐẦU ĐỎ, xin post lại đây entry cũ với hình ảnh đã được cập nhật từ các chuyến đi làm phim tài liệu của mình cho Quỹ Bảo Vệ Động Vật Hoang Dã về SẾU ĐẦU ĐỎ ở LUMBINI các năm 2011-2012. Bài này đã được Báo Giác Ngộ đăng năm 2010.
  Vì dung lượng lưu trữ có hạn nên mình không post lên đây đoạn phim "độc" mình quay điệu luân vũ lãng mạn của một đôi sếu. Bạn nào thích, xin liên hệ với mình qua Email: phunepal@gmail.com mình sẽ gửi tặng.

..."Người ta thường nghĩ rằng gọi loài chim Sarus Crane này là sếu nghe có vẻ quê mùa và gọi chúng là “hạc” thì sang hơn, tôn quý hơn. Thật ra hạc là một từ Hán Việt được người Hán dùng chỉ "con cò", còn sếu là từ thuần Việt. Chưa chắc “hạc” đã hơn “sếu”, mà nói đúng ra, “sếu” còn tôn quý hơn, xưa hơn và chính xác hơn “hạc” .Tên “sarus” xuất xứ từ “sarasa” của Sanskrit nghĩa là “loài chim ở hồ”.  Từ “sarasa” này vay mượn từ ngữ căn “sar” của hệ ngôn ngữ Austro-Asiatic (ngôn ngữ của người Naga chủ nhân đầu tiên của Lục Địa Ấn Độ và cũng là ngôn ngữ của tổ tiên người Việt cổ). Theo tên gọi này, tên Việt nôm na của chúng: “sếu” (theo hệ ngôn ngữ Austro-Asiatic) là chính xác và cổ xưa hơn từ “hạc” có lẽ đến vài ngàn năm. "




Thu đã về ở Lumbini. Mỗi buổi sáng ở đây tôi lại được đánh thức bởi bản hoà tấu của các lòai chim. Thoạt tiên văng vẳng từ xa đến gần là tiếng gọi giông giống như “Đến đây bái Phật - Đến đây bái Phật” (chim “bắt cô trói cột” của vùng rừng miền Đông Nam bộ). Rồi đến tiếng solo thanh thoát của những chú chim chìa vôi trên nền trầm của tiếng gáy cu cườm. Rồi không gian vỡ oà bởi cơ man nào tiếng của muôn chim.
Ngoài kia, những cánh đồng lúa xanh mướt mênh mông bát ngát kéo dài đến tận chân trời được viền bởi bóng tím sẫm của dãy Terai. Bồng bềnh bên trên dãy núi ấy là những chỏm tuyết trắng của Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ. Và trùm lên tất cả là bầu trời xanh ngăn ngắt không một bóng mây. Không khí tinh khiết đến mức có thể nghe được sương đêm thoang thoảng bay lên trong nắng sớm khi mấy con nai vàng dẫm khẽ khàng lên những lá cỏ như sợ làm phiền buổi tọa thiền sáng sớm của những bậc chân tu. Nắng lấp lánh trên mình nai, chúng đưa đôi mắt nâu to dịu dàng nhìn bóng những ngôi chùa thấp thoáng qua rặng cây rồi lặng lẽ đi vào khu đồng cỏ.
Đồng cỏ với những khoảng nước ngập sau mùa mưa, gió chờn vờn trên những chùm hoa cỏ trắng xoá. Nơi đây Thu cũng đã kịp gọi sếu về làm tổ.  

Đôi sếu đang tìm về tổ cũ

Người ta thường nghĩ rằng gọi loài chim Sarus Crane này là sếu nghe có vẻ quê mùa và gọi chúng là “hạc” thì sang hơn, tôn quý hơn. Thật ra hạc là một từ Hán Việt, còn sếu là từ thuần Việt. Chưa chắc “hạc” đã hơn “sếu”, mà nói đúng ra, “sếu” còn tôn quý hơn, xưa hơn và chính xác hơn “hạc” .Tên “sarus” xuất xứ từ “sarasa” của Sanskrit nghĩa là “loài chim ở hồ”.  Từ “sarasa” này vay mượn từ ngữ căn “sar” của hệ ngôn ngữ Austro-Asiatic (ngôn ngữ của người Naga chủ nhân đầu tiên của Lục Địa Ấn Độ và cũng là ngôn ngữ của tổ tiên người Việt cổ). Theo tên gọi này, tên Việt nôm na của chúng: “sếu” (theo hệ ngôn ngữ Austro-Asiatic) là chính xác và cổ xưa hơn từ “hạc” có lẽ đến vài ngàn năm.    
Một số sách lịch sử Phật giáo khi phiên dịch ra tiếng Việt từ nguồn Hán tạng có kể câu chuyện Đức Phật Thích Ca và chim thiên nga. Theo đó thì khi còn là một thiếu niên, một hôm trong vườn ngự uyển, hoàng tử Siddartha bắt gặp một con thiên nga bị thương bởi một mũi tên của Devadatta. Siddartha nhổ mũi tên ra và cứu chữa cho chú chim tội nghiệp. Nhưng Devadatta khi phát hiện được đã lên tiếng đòi con chim do mình bắn được. Cả hai không ai chịu ai và đi đến tranh cãi gay gắt. Theo truyền thống dân chủ cộng hòa của gia tộc Sakya, vụ việc được đưa ra Mote Hall ( Nhà hội nghị, như Quốc hội ngày nay) cho cả hai trình bày lý lẽ của mình và để toàn bộ các thành viên nam của gia tộc phán quyết. Siddartha đã được quyền giữ chú chim kia khi lý luận rằng “Sinh mạng con chim thuộc về người cứu nó chứ không phải về kẻ tước đoạt nó!”



Hình chim sếu trên trụ đá Asoka ở Niglihawa – quê hương của Đức Phật Kanaka Muni, gần kinh thành Kapilavastu
Theo học giả Hemraj Shakya, người tinh thông các ngôn ngữ cổ như Brahmi, Sanskrit, Pali – cây đại thụ uy tín trong giới nghiên cứu về lịch sử và văn hoá cổ đại của Ấn Độ và Nepal, thiên nga hoặc ngỗng trời ở vùng này không có, mà con chim trong câu chuyện trên chính là chim sếu, một loài chim đặc hữu của quê hương Đức Phật Thích ca. Theo các nhà khoa học, loài sếu này phân bố khắp miền Bắc Ấn; tuy nhiên ở Nepal chúng chỉ sinh sống ở Kapilavastu (quê cha của Đức Phật) và khu vực xung quanh Lumbini. Vùng này ngoài Đức Phật Thích Ca còn là quê hương của hai vị Phật trong quá khứ là Kanaka Muni và Krakuchanan, cả hai nơi đều được Đại Đế Asoka dựng cột đá đánh dấu. Không phải ngẫu nhiên mà chim sếu được khắc trên trụ đá ở Niglihawa, theo khám phá của riêng tôi, đây là trụ đá Asoka duy nhất được khắc hình ảnh động vật-một cách thức tôn vinh loài chim thiêng ở quê hương các Đức Phật của Asoka. Chính xác thay các kinh sách cổ khi nói rằng chim sếu tụ hội nơi có thánh nhân.



Tác giả trong một chuyến đi thực địa khảo sát về chim khắp Nepal năm 2005

Tác giả đang quay phim tài liệu về sếu năm 2011


Nepal là một thiên đường cho chim và những người yêu quý chim muông. Xứ sở này có khoảng 900 chủng loại chim, chiếm 8% chủng loại chim của thế giới. Chín chủng loại được đưa vào danh sách bảo tồn của Chính phủ Nepal bao gồm sếu, cò trắng, và cò nâu. Xứ này có luật bất thành văn rằng mọi người phải yêu quý muông thú không giết hoặc ăn thịt chim hoang dã, mà thật ra cũng không cần luật vì nó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người và được nhắc nhở giáo dục thường xuyên trong tất cả mọi cấp lớp của trường học. Vì thế, ngay cả ở nơi trung tâm đô thị như thủ đô Kathmandu người ta vẫn có thể nhìn thấy hàng đàn cò trắng, cò nâu đậu dày đặc theo các bờ sông hay làm tổ trên các cây cổ thụ.
Vùng Lumbini (Lumbini Zone) là phần mở rộng của Đồng bằng sông Hằng với một số con sông nhỏ, trong đó nổi tiếng nhất trong lịch sử Phật giáo là con sông Dầu (Telar Khola) đã được Ngài Huyền Trang mô tả trong hồi ký “Tây Du Ký” (không phải tiểu thuyết Tây Du ký của Ngô Thừa Ân). Vùng Lumbini rộng khoảng 140.000 ha, cao độ từ 95m đến 1200m trên mực nước biển. Khí hậu bán nhiệt đới, với mùa nóng dài hơn mùa lạnh và có bốn mùa: xuân, hè, thu (mưa) và đông. Nhiệt độ vào mùa hè thường trên 30º C có thể lên đến 38-39 và  mùa đông rơi xuống trên dưới 15º C. Mùa mưa từ tháng 6,7, 8 và có thể kéo dài sang cả 9-10. Vào mùa thu thì ngày ấm và đêm lạnh.Tổng diện tích đất do con người sử dụng chiếm đến 68% (cư trú và canh tác). Đồng cỏ chiếm 6% diện tích đất dọc theo bờ sông và trong khu bảo tồn Lumbini, đấy chính là nơi sếu làm tổ và kiếm thức ăn chính. Con sông Dầu chảy xuyên qua khu vực bảo tồn Lumbini và vùng đất ngập nước do nó tạo nên trong khu vực Lumbini được quy hoạch thành khu bảo tồn sếu của Nepal.
Sarus Crane hay sếu đầu đỏ của vùng này cùng một chủng loại với sếu đầu đỏ ở vùng Đồng Tháp Mười của Việt Nam. Đây là loài sếu cao nhất, khi đứng thẳng từ chân lên đến đỉnh đầu vào khoảng 2m, sãi cánh khi dang ra hết cỡ rộng đến 2,5m. Sếu trưởng thành nặng từ 7-10kg, toàn thân phủ một lớp lông xám nhạt, ở đỉnh đầu không lông với da mịn mướt màu xanh ve chai, toàn bộ lông đầu và phần trên của cổ màu đỏ huyết dụ. Chân có màu đỏ nhạt. Chim mái thường nhỏ hơn chim trống chút ít. Chim non có bộ lông tơ vàng ánh trên đầu và thân mình sậm hơn màu nâu quế.
Sếu đầu đỏ là loài chim không thiên di, chỉ di chuyển giữa các vùng thức ăn vào thời gian chuyển tiếp giữa mùa khô và mùa mưa. Chúng là loài chim thân thiện với con người đến mức gần như không sợ người, kể cả nơi có mật độ dân cư cao như vùng Bắc Ấn. Tuy nhiên cũng phải nói thêm rằng điều này vì địa phương này có truyền thống “chung sống hòa bình” giữa các giống loài trải qua vài ngàn năm. Tuổi thọ một con sếu có lẽ lên đến nửa thế kỷ (người ta đã thấy một con sếu được nuôi từ nhỏ với người sống đến hơn 40 năm). Ở Ấn độ và Nepal, sếu được coi là chim thiêng và không bao giờ xâm phạm đến chúng. Chim non thì mừng rỡ chạy đến khi người ta vẫy tay, quấn quýt với người cho chúng ăn như những chú cún con. Và cũng như chó, chúng rất hung dữ với người lạ bước vào ngôi nhà của chủ chúng, (thêm một điều buồn cười là chúng rất ghét chó, hễ bất cứ con chó nào lảng vảng trong sân là nó rượt đuối chạy toé khói).



Một con sếu đang giữ nhà cho một người địa phương sau khi nó gãy cánh và được người này cứu chữa và nuôi dưỡng

Môi trường sống của sếu là những cánh đồng nước ngập theo mùa, đồng cỏ, ruộng lúa, hồ nước. Trái với quan niệm ban đầu của chúng tôi rằng sếu là loài “ăn chay”, trong thực tế sếu ăn khá nhiều loại thức ăn, cỏ, cây thủy sinh, rễ, củ, các loại hạt, động vật không xương sống, côn trùng, động vật nhỏ…
Tôi bắt gặp một điều thú vị ở Lumbini. Theo quy hoạch, chính phủ Nepal lập ra làng Đức Phật (Buddha Nagar) để tái định cư những gia đình sinh sống trong khuôn viên Vườn Lumbini. Ở làng này vào mùa Thu, cứ chiều chiều lại có một con sếu hoang đi đến từng nhà để khất thực. Đến trước mỗi cửa nhà, nó dừng lại gật gật đầu mấy cái như chào chủ nhà rồi đứng đợi người ta cho thức ăn. Nó không khất thực duy nhất một nhà mà mỗi nhà chỉ ăn chút ít rồi sang nhà khác dọc theo một con đường dài chừng 50m. Tôi thường ngồi uống trà sữa khoảng giữa con đường đó để đợi nó. Nó đến rất đúng giờ, tầm 4 giờ chiều mỗi ngày. Tôi lấy bánh bich-quy đưa cho nó. Sếu khéo léo dùng chiếc mỏ dài gắp từng cái bánh trong tay tôi, đặt xuống đất và dùng mỏ bẻ làm hai miếng rồi mới từ tốn ăn từng miếng; sau đó mới gắp cái bánh khác. Lần nào nó cũng chỉ nhận 5 cái bánh quy rồi thôi. Sau khi ăn xong, sếu cúi đầu chào tôi vài cái rồi mới thong thả đi sang nhà kế bên nhận thức ăn. Không ai biết nó từ đâu tới cũng như bao nhiêu tuổi. Làng này mới thành lập trên dưới 15 năm và từ những năm đầu người ta nói là đã thấy con sếu kia về khất thực.



Tác giả đang tặng thức ăn cho một con sếu hoang đi khất thực hàng ngày trong làng Đức Phật ở Lumbini

Sếu thường được coi như biểu tượng của sự chung thủy, người ta tin rằng chúng kết đôi với nhau một lần cho suốt cuộc đời, và nếu một trong hai mất đi, con còn lại sẽ nhịn ăn đến chết.


Điệu luân vũ của những đôi sếu mùa yêu đương

Khi vào mùa làm tổ, sếu bắt cặp và  biểu diễn những điệu luân vũ kèm theo bản hợp ca ngập tràn hạnh phúc. Tiếng hoan ca của chúng là một tràng những âm thanh phức hợp, hoà điệu lần lượt giữa tiếng chim trống và chim mái. Cứ mỗi tiếng gáy của chim trống thì chim mái gáy theo hai tiếng ngắn. Cả hai vươn người trong một tư thế hoàn mỹ, đầu ưỡn về sau, mỏ há vươn lên bầu trời như muốn gửi thông điệp yêu thương tới toàn vũ trụ. Rồi chim trống vươn xoè cánh lên cao trong khi chim mái thì xếp cánh yểu điệu duyên dáng bọc lấy thân mình để múa “Vũ điệu kết đôi”. Đôi sếu lướt trên cỏ như những vũ công ballet rồi rung lắc thân mình như những vũ nữ múa bụng, rồi cúi chào nhau, rồi bay bỗng lên không trung, rồi nhặt những cọng cỏ ném yêu vào nhau, rồi vỗ cánh hân hoan...kéo dài hàng vài chục phút... Đó là cảnh tượng thiên nhiên kỳ thú nhất mà tôi từng được chứng kiến, khi có hàng vài chục đôi sếu cùng múa ca trong một buổi hoàng hôn mùa thu.
Vào khoảng tháng bảy-tám sếu bắt đầu làm tổ. Tổ chim sếu làm bằng các loại cây cỏ của vùng nước ngập, kể cả lúa. Sau khi chọn nơi làm tổ (các đôi sếu cũ thường làm tổ ở ngay chính cái tổ của năm trước), giữa một vùng ngập nước đến gần đầu gối, cặp sếu bắt đầu dùng mỏ nhổ quang quẽ cỏ, sậy, lúa xung quanh một diện tích 5-6 mét vuông và chất thành một gò nhỏ đường kính khoảng gần 2m. Khi làm tổ, cặp sếu đi theo chiều kim đồng hồ, nhổ và quăng thật chính xác các cây cỏ vào nơi làm tổ. Cứ kết thúc một vòng thì chim trống lại leo lên dẫm cho đống cây cỏ nén xuống thật chặt. Nhìn từ xa tổ sếu giống như một cù lao nhỏ nhô lên khỏi mặt nước 50-60cm trên đỉnh hơi lõm xuống. Sếu làm tổ giữa mặt nước như vậy có lẽ nhờ nước để điều hoà nhiệt độ, mát vào giữa trưa và ấm vào ban đêm. Và cũng có nguyên nhân nữa là để phòng tránh các thiên địch của trứng và chim con như: chồn, cáo, chuột, rắn…



Một đôi sếu bắt đầu làm tổ
Không một nông dân nào phàn nàn khi sếu nhổ trụi một khoảng lúa 4, 5 mét vuông trên ruộng của họ để làm tổ, trái lại còn vui mừng khi thấy sếu chọn ruộng của họ để làm tổ. Theo họ đó là một điềm lành, sếu sẽ mang lại may mắn và no ấm cho gia đình họ trong năm kế tiếp. Vì thế không có chuyện phá tổ sếu hoặc xua đuổi sếu. Điều này ngoài tín ngưỡng cổ xưa của vùng này là tôn kính sếu, còn có một tình yêu thương lẫn nhau giữa sếu và người. Chim mái thường đẻ hai trứng rất cân bằng âm dương, một sẽ là trống và một là mái. Trứng chim được ấp trong vòng 30 đến 35 ngày. Chim trống thường đi vòng quanh để bảo vệ cho tổ trong khi chim mái ấp và ấp thay chim mái khi con này đi ăn. Khi trời nắng chúng dùng mỏ đảo trứng để sức nóng toả đều quả trứng. Trứng chim chiều rộng có đường kính khoảng 10 cm, chiều dài khoảng 13cm đường kính trục, nặng khoảng trên dưới 300g, vỏ màu trắng có vân xám nhạt. Ăn trứng và thịt sếu là điều cấm kỵ (taboo) theo tín ngưỡng dân gian toàn vùng, vì thế không bao giờ có việc bất cứ kẻ nào dám ăn thịt hay trứng của loài chim thiêng này, kể cả vào mùa đói kém nhất.


Tổ chim sếu đầu đỏ

Trong thời gian khảo sát thực địa ở Lumbini, tôi đã tiếp cận với các tổ sếu để quan sát và tìm hiểu kết cấu tổ cũng như cân đo trứng sếu. Khi chúng tôi lội qua cánh đồng ngập nước để đến gần tổ của chúng, đôi sếu tỏ vẻ giận dữ chứ không sợ hãi. Chúng chạy vòng quanh ở khoảnh cách 5-6 m, con chim trống giang rộng đôi cánh lên, mỏ há lớn phát ra những âm thanh chói gắt, chim mái thì ở khoảng cách xa hơn nhưng cũng không kém phần kích động. Khi cân đo trứng sếu tôi đã phải rất cẩn thận dùng bao tay phẫu thuật vì sợ trứng ám hơi người sẽ bị đôi sếu mổ thủng bỏ đi.
Người nông dân nghèo khổ này sống trong một cái chòi lá vách đất, quanh năm suốt tháng chỉ quần xà lỏn và quàng tấm khăn như thế này. Đôi sếu đến làm tổ nhổ trụi nửa công ruộng của ông (500m2). Ngày đầu tiên tôi lội vào quay phim, ông đã chặn lại vì sợ tôi... ăn cắp trứng sếu. Các bạn có thể thấy đôi sếu đứng xa xa phía sau ông ta.
Một quả trứng sếu bị ung, nổ tung lúc 12 giờ trưa khi trời quá nóng

Chim sếu ấp trứng
Sau khi ấp trên dưới một tháng thì trứng nở. Vỏ trứng sau khi nở sẽ được chim bố mẹ mang đi quẳng thật xa khỏi tổ. Tập tính của sếu là giữ khu vực xung quanh tổ thật sạch, khi có bất kỳ cọng cỏ cây nào trôi gần đến tổ là nhặt quẳng đi thật xa (phòng chống rắn chăng?). Trong vài ngày đầu, chim non được bố mẹ đút thức ăn, khoảng một tuần tuổi chúng đã có thể theo bố mẹ đi kiếm ăn. Khi có nguy hiểm, chim bố mẹ kêu to báo động một cách đặc biệt, các chú chim con liền đứng im bất động cho đến khi bố mẹ đến gần dùng mỏ dụi dụi lên thân mình báo hết nguy hiểm rồi dẫn chúng đi tiếp.
Đôi sếu đang thảnh thơi ăn bên cạnh những người nông dân quê Phật Lumbini, phía xa là chiếc cày máy ầm ĩ
 Kỷ niệm đặc biệt nhất ở Lumbini của tôi là cứu sống một chim sếu con vào mùa thu 2005. Năm ấy mùa mưa kéo dài hơn thường lệ. Tôi làm một cái chòi dã chiến trên bờ ruộng để quan sát tổ của một đôi sếu. Sau một tháng, chỉ có một trứng nở, trứng còn lại bị ung và bị chim bố mỏ bỏ vứt đi. Chim sếu nở được một tuần thì gặp một cơn mưa lớn. Mưa dầm dề từ suốt từ nửa đêm 19, rạng ngày 20/10/2005. Kèm theo là cơn rét cắt da đột ngột, ở Lumbini đang từ 30 độ bỗng rớt xuống chỉ còn trên dưới 20 độ C. Rét kèm với mưa nên càng thấm. Đây không phải là cơn mưa lớn nhất, nhưng là cơn mưa dai nhất và lượng nước nhiều nhất mà tôi từng gặp ở Lumbini (cuối cùng thì sau đúng ba ngày trời mới tạnh hẳn). Ngày đầu tiên đôi sếu bố mẹ đứng chụm vào nhau che cho chú sếu con không đi kiếm ăn như thường lệ. Ngày thứ hai, đôi lúc một con nháo nhác chạy đi một lúc chắc là tìm thức ăn rồi vội vã quay về đổi chỗ. Vào lúc chập choạng tối ngày thứ ba, chúng tôi nghe tiếng sếu kêu thảm thiết vội vàng đội mưa chạy ra. Đôi sếu đang tất tả bỏ đi. Không thấy chú sếu con một tuần tuổi đi theo. Đoán có chuyện chẳng lành tôi và hai người địa phương giúp việc vội chia ra tìm. Người thì chặn mấy người Nepal đi bắt cá lại, xét giỏ đựng cá, kẻ soi đèn pin kiếm trong từng bụi cỏ. Mãi một lúc sau mới thấy chú sếu con nằm gục trong đám cỏ ven bờ ruộng, lông tơ ướt bẹp, người tím ngắt, mắt đã lờ đờ. Chúng tôi vội vã mang vào nhà của một người địa phương gần đó, thấm khô, rồi sưởi ấm chú bằng bóng đèn tròn. Được một lúc chú thở hắt ra rồi ngáp ngáp. “Sống rồi!” May quá. Một lát sau chú bắt đầu kêu khẽ mấy tiếng. Cả đêm ấy bọn chúng tôi thức trắng trông chừng chú.
Nửa đêm, vợ chồng sếu quay về tìm con, kêu thảm thiết. Tờ mờ sáng, chúng đi lảng vảng quanh ổ kêu than nẫu ruột. Trời vẫn mưa và lạnh quá nên chúng tôi không dám trả con cho chúng ngay. Cứ cách nửa giờ một lần chúng tôi bẻ bich-quy thành mẩu nhỏ mớm cho chú sếu con. Mãi đến chiều trời bớt mưa, chúng tôi mới thả chú sếu con về với bố mẹ. Chúng mừng rỡ ríu rít bên nhau rồi dắt nhau đi khuất trong màn mưa lất phất.




Sếu con được sưởi ấm bằng bóng đèn điện đã hồi tỉnh



Tác giả và chú sếu con được cứu sống.
Thu đã về ở Khu Vườn Thiêng Lumbini. Năm nay nắng gắt chen lẫn những cơn mưa lớn kéo dài. Tôi lại tìm về nơi chốn bình an ấy để lại được ngắm điệu luân vũ yêu thương của đàn sếu, để được tặng thức ăn cho con sếu khất thực và hoà nhập tâm hồn vào không gian huyền diệu của một trong những nơi linh thiêng nhất trên Trái Đất nơi đã đón nhận bước chân đầu tiên của Đức Từ Phụ của chúng ta.
Lumbini, Mùa Sếu 2010
Phật tử Nguyễn Phú



Sếu về bên Chùa Linh Sơn ở Lumbini của Người Việt ở Pháp
BONUS: BÀI NÀY CỦA MÌNH ĐĂNG TRÊN TUỔI TRẺ ONLINE NGÀY 12/09/11
http://tuoitre.vn/Ban-doc/455493/Dung-hoc-thoi-troc-phu-de-an-thu-hoang-da.html
Thứ Hai, 12/09/2011, 11:08 (GMT+7)
Đừng học thói trọc phú để ăn thú hoang dã
TTO - Man rợ, theo tôi chỉ có thể dùng từ như vậy với hành vi tận diệt thiên nhiên này. Đừng ngụy biện là dân nghèo kiếm sống mà phải bắt chim. Và cũng đừng đua đòi theo thói trọc phú tìm kiếm cao lương mỹ vị đặc sản mà ăn tất tần tật muông thú hoang dã.
Bạn có thể tưởng tượng cảnh những đôi chim sếu thảnh thơi đi ăn ngay bên cạnh thửa ruộng có nông dân đang cày bừa (kể cả máy cày cơ giới) mà không hề e ngại (ảnh).
Sếu trên đồng

Các "vua bếp" có bao giờ nổi tiếng với các món ăn man rợ từ động vật hoang dã? Chẳng lẽ các nhà khoa học lại không thể xác định tính dinh dưỡng (nếu có) từ các "món ăn đặc sản" chế biến từ động vật hoang dã? Tất cả chỉ là vấn đề tâm lý của kẻ trọc phú muốn mình hơn tất cả thiên hạ, ngay cả trong việc ăn, bởi vì tiền thừa thãi quá.
Tôi đang sống ở Nepal. Dân xứ này nghèo hơn dân nghèo ở Việt Nam, thế mà không bao giờ có chuyện bắt một con chim trời ăn thịt, đừng nói là tận diệt theo kiểu ở Hà Tĩnh. Tháng rồi tôi đi làm phim tài liệu về sếu đầu đỏ ở quê Đức Phật.
Khi tôi lội vào một khu ruộng để quay hình tổ sếu ngay trong ruộng lúa, người nông dân chủ ruộng thoạt tiên đã ra dấu không cho: "No egg! No egg!" (Không được lấy trứng!) vì tưởng chúng tôi đến lấy trứng chim (ảnh).
Mặc dù khoảnh ruộng gần 1 công đất không thể trồng trọt vì chim sếu làm tổ, thế mà ông nông dân nghèo còn bảo vệ như thế. Sếu còn bình an sống cạnh con người như thế, các loài chim khác thì sống càng thoải mái hơn.
NGUYỄN PHÚ