14 tháng 1, 2013

VẺ ĐẸP THARU

Hôm nay mình dự lễ hội Maghi (Tết) của người Tharu.
Tharu là tộc người có những bộ trang phục sặc sỡ và những bộ trang sức cầu kỳ nhất Nepal.
Xin mời các bạn xem qua một vài hình ảnh mình "chộp" được hôm nay. Đáng yêu quá phải không?
Tim mình giờ này vẫn còn nhảy thình thịch đây này....
 
Xin bấm vào các hình để phóng to lên!



13 tháng 1, 2013

NHỮNG BÀI VIẾT CŨ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN HỌ THÍCH-CA

 1-Dòng tộc và quê hương Đức Phật

Lịch sử » Đức Phật
23/03/2008 21:21 (GMT+7)

 http://www.giacngo.vn/lichsu/ducphat/2008/03/23/52C450/


2- LINKS: Các bài về họ Sakya http://nguyenphunepal.blogspot.com/search/label/Sakya

3- LINK: Bảo tháp Ramgram 1: http://nguyenphunepal.blogspot.com/2012/05/ramgram-bao-thap-nguyen-thuy-luu-giu-xa.html
4- LINK: Bảo Tháp Ramgram 2:  http://nguyenphunepal.blogspot.com/2012/06/ramgram-bao-thap-nguyen-thuy-luu-giu-xa.html  
5- LINK: Chudakarma-Lễ Xả nghiệp Xuất gia của họ Thích-ca: http://nguyenphunepal.blogspot.com/2010/09/chuda-karma-le-xa-ngiep-xuat-gia-mot.html

 

LTS: Tìm về quê hương Đức Phật là khát vọng lớn của nhiều nhà nghiên cứu và học giả, xưa cũng như nay. Qua khảo sát bằng thực địa cũng như dựa vào những chứng tích, truyền khẩu của dòng họ Shakya hiện nay đang sống ở Nepal, anh Nguyễn Phú đã cung cấp một huớng đi mới trong việc tìm hiểu về quê hương cũng như dòng họ của Đức Phật. Việc lội ngược dòng lịch sử gần ba ngàn năm để tìm lại giá trị văn hóa cổ xưa mà hiện nay đã mang tính toàn nhân lọai là một việc làm ý nghĩa và rất đáng trân trọng. Nguyệt san Giác Ngộ xin giới thiệu bài viết được gởi về từ thủ phủ Kathmandu, kinh đô của Nepal.
  Nguồn gốc Kapilavastu và vương tộc SHAKYA
Nguồn gốc nguyên thủy của vương tộc Shakya bắt nguồn từ Kosala, một vương tộc thuộc dòng Aryan cai trị vùng đất ở chân dãy Terai. Câu chuyện bắt đầu từ vua Okkaka. Vua Okkaka thuộc dòng dõi mặt trời, tông tộc Ikshanku. Sau khi người vợ đầu tiên chết, nhà vua cưới một người vợ khác. Hoàng hậu trước đó đã sinh cho nhà vua chín người con (4 trai, 5 gái). Khi hoàng hậu thứ hai sinh hạ một hoàng nam, vì muốn giành lấy vương quốc cho Jayantu con của mình đã gây áp lực với nhà vua để ông phải đưa các con của người vợ trước đi xa. Vua Okkaka vì quá si mê hoàng hậu nên đành phải chấp nhận yêu cầu của bà ấy. Các vương tử: Ulkamukha, Karandu, Hastinika, Sinisura, và các công chúa: Priya, Supriya, Ananda, Vijita, Vijitasena được lệnh nhà vua phải rời khỏi vương quốc Kosala vào sống nơi rừng sâu.


Những vương tử và công chúa cành vàng lá ngọc rời khỏi kinh đô Saketa tiến về phía dãy Himalaya. Trải qua bao vất vả, cực nhọc họ đến một vùng đất là nơi ẩn tu của vị ẩn sĩ Kapilamuni. Được ẩn sĩ cưu mang và cho phép, họ đã kiến lập nên một vương quốc và đặt tên là Kapilavastu (hoặc Kapilanagara) để vinh danh ẩn sĩ Kapilamuni.
Thời gian cứ trôi, những hoàng tử và công chúa của xứ Kosala đi đày đã đến tuổi lập gia đình. Bởi tập tục kết hôn với người cùng dòng máu là bình thường thời bấy giờ, tám anh em kết  hôn với nhau và tạo ra tông tộc Shakya (tập tục này ngày nay một số gia đình họ Shakya vẫn còn giữ, tức là chỉ kết hôn với người mang họ Shakya). Vị công chúa lớn tuổi nhất là Priya được bổ nhiệm làm mẫu hậu, còn hoàng tử Ulkamukha được bổ nhiệm là quốc vương đầu tiên của vương quốc non trẻ Kapilavastu.
Một ngày nọ, Okkaka -nhà vua xứ Kosala, nghe kể về cuộc phiêu lưu của những đứa con của mình. Ông quá kích động và kêu lên rằng: “Sakya-Vata-bho-Kumara”(nghĩa là: những đứa trẻ phiêu lưu đã có kết thúc tốt đẹp). Từ câu nói này, về sau, người ta thường dùng tên Sakya (Shakya) để chỉ vương quốc hoặc dòng tộc này, còn Kapilavastu là kinh đô của vương quốc đó.
Theo nghiên cứu của Giáo sư Oldenberg, Kapilavastu - vương quốc của những người Shakya, là một tiểu quốc cộng hòa thuộc phạm vi cai quản của một nhà vua lớn hơn ở Ấn Độ, cụ thể là Kosala. Như ta đã thấy từ quá trình hình thành của nó, Kapilavastu đã bầu chọn người cai trị  một từ trong các thành viên hoàng gia và sự thần phục Kosala là tất nhiên vì đó là vương quốc tổ tiên của họ.
… Ngành kinh tế chính của Kapilavastu là nông nghiệp. Những làng mạc quần tụ quanh những cánh đồng lúa và gia súc thì chăn nuôi ở khu vực cạnh rừng. Nơi đây cũng có những người thợ thủ công: thợ mộc, thợ rèn, thợ gốm,…, tầng cấp Brahmin (Bà la môn). Có một vài cửa hàng nhưng không nghe nói có thương gia và nhà băng. Những đường phố hẹp chật ních voi, ngựa, xe và người. Việc hành chính và tư pháp của vương quốc được giải quyết công khai tại Hội trường công cộng (Mote Hall - Sansthagara). Nhà cửa của kinh thành quay mặt ra đường được trang trí bằng các ban công và các tháp lầu. Hoàng cung được xây dựng kiên cố với các cổng lớn giữa các bức tường và tháp canh cao vút. Toàn bộ kinh thành được bao quanh bởi một cái hào, có chỗ có đến hai hào, một hào bùn, một hào nước. Những cung điện rộng lớn và cầu kỳ bằng gỗ và gạch là nơi diễn ra những sinh hoạt xa hoa của cung đình...
Đó là những mô tả của Giáo sư Rhys Davis về nước cộng hòa Kapilavastu của vương tộc Shakya qua những cứ liệu khảo cổ thu thập được về địa danh này.
                     Vương tộc Koliya - Bên ngoại thái tử Siddhartha
Nguồn gốc của vương tộc Koliya bắt đầu gần như cùng thời điểm và con người với vương tộc Shakya.
Chúng ta đã biết  Priya là mẫu hậu đầu tiên của Kapilavastu. Tuy nhiên, một thời gian sau cô bị nhiễm bệnh hủi. Cô rời bỏ vương quốc và đi đến sống trong một cái hang cọp (vyagghapatha) trong khu rừng dưới chân núi phía Đông Bắc Kapilavastu. Ngẫu nhiên, Rama - vua của vương quốc Banaras (Ba La Nại) cũng bị nhiễm bởi cùng một chứng bệnh ấy và đến sống tại khu rừng gần cái hang mà Priya ở. Một hôm Rama đến ngồi dưới gốc cây Kolan cổ thụ trong khu rừng và kỳ diệu thay chứng bệnh của chàng đã biến mất. Khi gặp Priya trước cái hang cô ở, Rama chỉ cho cô cái cây huyền diệu và cô cũng được khỏi bệnh sau khi ngồi xuống dưới gốc cây ấy. Sau khi khỏi bệnh, hai người kết hôn với nhau, sinh hạ 32 người con và tạo lập nên thành phố Devadaha ở phía Đông biên giới Kapilavastu. Từ đấy đã hình thành nên họ tộc Koliya. Vương quốc này được biết đến với nhiều tên gọi như: Devadaha,  Vyaghrapura, Kolinagara, Ramagrama. Mỗi cái tên gắn liền với một sự tích tạo lập nên vương quốc. Devadaha (Thành phố thần thánh) là để tôn  vinh các vị thần nơi họ tạo lập nên vương quốc mới. Vyaghrapura là tên cái hang cọp mà hoàng hậu Priya đã ở. Kolinagara là để vinh danh cây thần Kolan đã chữa khỏi bệnh cho nhà vua và hoàng hậu. Còn Ramagrama chính là để vinh danh nhà vua Rama - người đã tạo lập nên vương quốc.
Do có cùng nguồn gốc nên vương tộc Shakya ở Kapilavastu và vương tộc Koliya ở Devadaha đã có những mối quan hệ hôn nhân mật thiết. Nhiều đời giữa  hai vương tộc đã thành thông gia. Đến thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, phụ vương Ngài đã cưới cả hai chị em công chúa Mayadevi và Prajapati, còn chính Ngài cũng đã kết hôn với công chúa Yasodhara tuyệt đẹp của vương tộc Koliya. Việc cai trị ở Devadaha cũng theo mô hình của Kapilavastu, nhưng Koliya có đến hai trung tâm quyền lực - một ở Devadaha, một ở Ramagama.
Chúng ta đều biết rằng sau khi Đức Phập nhập Niết bàn tại Kusinaga, xá lợi của Ngài được chia làm tám phần cho tám vị quốc vương. Vương quốc Ramagrama cũng được một phần trong số ấy và đem về lập tháp thờ tại Devadaha.
Huyền thoại kể rằng khi Đại đế Ashoka  xây dựng 84.000 bảo tháp thờ Phật, ông đã cho khai quật các ngôi tháp của các vương quốc được phân chia xá lợi Phật đầu tiên để lấy xá lợi chia lại cho 84.000 bảo tháp mới. Ông đã khai mở hết bảy tháp. Tháp cuối cùng là tháp thờ xá lợi Phật của vương quốc Ramagrama. Khi ông đến tháp ấy có một con rắn khổng lồ nằm cuộn tròn quanh bảo tháp. Đó là Thần Rắn Naga. Sau đó thần rắn biến thành hình người và mời Đại đế Ashoka xuống thăm cung điện của Naga dưới đáy hồ bên cạnh bảo tháp. Sau khi tiếp đãi hoàng đế theo nghi lễ, Naga trình bày cho hoàng đế thấy những vật dụng thần thánh mà Naga dùng hàng ngày để cúng dường xá lợi Phật cầu mong tiêu trừ nghiệp chướng. Rắn thần chấp nhận cho hoàng đế khai mở bảo tháp để lấy xá lợi với điều kiện phải cúng dường hàng ngày tốt hơn Naga đã làm. Ashoka nghĩ rằng không thể làm hơn những gì Naga đã làm nên vui vẻ bỏ qua ý định khai mở bảo tháp lấy xá lợi.
Bộ Đại sử của Sri Lanka (Mahavamsa) lại kể rằng ngôi tháp Ramagrama nằm bên bờ một con sông và đã bị nước xoáy phá hủy. Chiếc bình đựng xá lợi Phật bị cuốn trôi ra biển. Nó được thần Rắn Naga tìm thấy và thờ phụng trong một ngôi bảo tháp. Vào thời vua Dutthagamini (161-137 trước Tây lịch), chiếc bình đựng xá lợi Ramagrama đã được vị Thánh Tăng Sonuttara dùng thần thông thu được và đưa về thờ phụng ở Mahathupo tại Sri Lanka(?).
“Nước Lam Ma bây giờ đã hoang phế không còn dấu vết gì, thành ấp đã đổ nát xiêu vẹo, người dân thưa thớt. Thành xưa ở phía Đông Nam có một bảo tháp lợp ngói cao gần 100m. Ngày xưa, sau khi Đức Như Lai nhập diệt, vua của nước này đến phân chia xá lợi mang về nước của mình rồi ra sức tôn tạo kiến thiết nên. Đây là nơi rất linh thiêng, có ánh sáng phát ra từ tháp. Bên cạnh bảo tháp có một ao nước trong có một con rồng cư trú nơi đó. Mỗi lần con rồng ra đi nó biến thành con rắn. Phía bên phải cũng có một bảo tháp" (Đại  Đường Tây Vực ký - Huyền Trang).
Đó là mô tả của ngài Huyền Trang khi ngài đến chiêm bái vương quốc Ramagrama vào thế kỷ thứ VII sau Tây lịch.  Cả hai ngài Pháp Hiển (thế kỷ thứ V) và Huyền Trang đều thấy được ngôi tháp Ramagrama còn tồn tại.
Năm 1898, Tiến sĩ Hoey căn cứ theo kinh sách đã tìm lại được kinh thành Devadaha. Nó nằm ở chân núi Terai, phía Tây Nepal. Năm 1964, Tiến sĩ S.B Deo xác định được vị trí tháp Ramagrama bên bờ sông Jharai. Nơi đó có một gò đất cao chừng 9m và đường kính chân gò là 21m, với chân móng bằng gạch nung. Các học giả và nhà khảo cổ đã đo đạc và so sánh những khoảng cách đã được nêu trong các tài liệu của các ngài Pháp Hiển và Huyền Trang và công nhận tính chính xác của các nghiên  cứu của Tiến sĩ S.B Deo.
Ngày nay, khách hành hương muốn viếng thăm Ramagrama và quê ngoại của Đức Phật thật dễ dàng. Nếu xuất phát từ Lumbini, chúng ta sẽ đi đến Bhairahawa 25km, từ đây chúng ta đi tiếp 25km nữa đến thành phố Butwan. Đây là một thành phố lớn ở miền Tây Nepal, nằm vắt ngang quốc lộ Mahendra. Tại Butwan chúng ta theo đại lộ Mahendra về hướng Đông (hướng về thủ đô Kathmandu)  chừng 10km, bên tay phải có một con đường rải đá dăm dẫn đến Devadaha kinh đô của Koliya và dòng sông Rohini nổi tiếng. Nếu theo quốc lộ đi quá lên chừng 10km nữa, chúng ta gặp một đường nhựa nhỏ dẫn đến thị trấn Parasi, tháp Ramagrama ở gần ngay đó. Tuy có nhiều huyền thoại quanh nó nhưng người ta vẫn tin rằng 1/8 xá lợi của Đức Phật vẫn còn trong ngôi tháp ấy và vẫn đến cúng dường thật thành kính.
Tại cổng chào của Devdaha (Devadaha), chính quyền địa phương đã cho xây dựng một công viên nhỏ. Trong công viên có tôn tượng của Đức Phật Thích Ca cao chừng 2m, và lùi sau lưng Ngài một chút là tôn tượng của ngài Sariputa (Xá Lợi Phất). Devdaha có một tinh xá thờ ngài Mayadevi và Prajapati. Tuy nhiên dân chúng địa phương theo Hindu giáo đã đồng hóa các vị với nữ thần Barimalika Devi, người được thờ phụng khắp từ Kashmir đến sông Hằng. Họ gọi hai vị là Bairimai và Kanyamai. Trong tinh xá có hai tượng đá của hai vị. Tượng này đã bị hư hỏng khá nhiều. Đến đây tôi mới khẳng định được rằng tinh xá trong cổ thành Kapilavastu  chính là tinh xá thờ  Đức bà Mayadevi mà ngài Huyền Trang đã kể. Nằm cách 1km về phía Nam tinh xá thờ Đức Mayadevi và Pajaprati là kinh đô cổ Devadaha. Nơi đây còn một trụ đá đánh dấu do Đại đế Ashoka đặt vào năm 249 trước Tây lịch, tương tự như trụ đá ở Lumbini. Cũng giống như trụ đá ở Lumbini và Kapilavastu, trụ đá Devadaha cũng đã gãy đổ. Phần gốc nhô lên chừng tám tấc, phần trang trí đầu trụ đã mất, phần thân vỡ nhiều mảnh.Trụ đá này là một trong những chứng cứ  quan trọng để các nhà khảo cổ xác định vị trí kinh đô Devadaha cổ đại. Những dòng chữ do Đại đế cho khắc trên trụ đá nói rằng đây là nơi sinh của Mẹ của Đức Phật. Tôi được cho xem bản dịch tiếng Anh của những dòng chữ ấy, sơ lược như sau: Đức vua Piyadasi (Ashoka), người được chư thần yêu quý, vào năm thứ 20 trong triều đại của ngài đã đến thăm viếng Devadaha và bày tỏ lòng kính trọng. Bởi vì đây là nơi sinh của mẹ Đức Phật nên Hoàng đế giảm thuế cho làng Devadaha xuống chỉ còn 1/8.
Từ cổng chào của Devdaha về hướng Nam chừng vài km, giữa cánh đồng có một cây đại thụ hùng vĩ. Từ xa đã thấy sắc xanh đặc biệt của lá cây. Cây cao chừng 30m, tỏa bóng mát che rợp chu vi  đường kính 40m. Cành xõa ra từ sát mặt đất. Không ai dám chặt một cành nào của cây ấy vì đây chính là cây thần Kolan và tôn kính gọi đó là "Kotiyamai”. Từ xa xưa, kên kên, đại bàng và voi cũng không dám đến gần cây thần này. Vua Rama và hoàng hậu Priya đã được chữa khỏi bệnh dưới một cây Kolan và tên cây đã thành tên vương quốc của họ. Không ai dám chắc rằng cây Kolan ngày nay có phải là cây Kolan trong huyền thoại hay không nhưng tận đáy lòng tôi tin trong những chiếc lá xanh kia có chứa tứ đại của cây thần Kolan huyền thoại. 
Rời cây thần Kolan, chúng tôi đến chiêm bái tháp Ramagrama. Chúng tôi thắp hương rồi nhiễu quanh tháp chín vòng và niệm danh hiệu Đức Thế Tôn. Tuy chỉ là một gò đất nhưng nơi này là một trong những nơi thiêng liêng nhất của Nepal vì chứa đựng 1/8 xá lợi Phật. Chính các nhà khảo cổ  hiện nay cũng không dám khai mở tháp Ramagrama. Hồ Naga cạnh tháp đã cạn khô có lẽ Thần rắn Naga đã tái sinh kiếp khác hay do công đức cúng dường xá lợi nên đã về cõi vô ưu.
Câu chuyện về dòng họ Shakya của Đức Phật chưa dừng ở thời điểm Vidudhaba hủy diệt kinh thành Kapilavastu và tàn sát tất cả người mang họ Shakya. Một số vương tử đã trốn thoát; một số chạy về Piprava dựng nên kinh đô Kapilavastu mới. Một số đi đến các vương quốc vùng Himalaya và làm vua ở đó. Trong số này, có một nhóm đã dựng nên một thành phố mới gọi là Moriyanagara, nơi họ đã nghe tiếng gáy vang của những con công. Đó là bắt đầu cho một dòng họ mới khai sáng ra triều đại Moriya huy hoàng mà người thứ ba của triều đại trở thành vị  Chuyển luân vương vĩ đại nhất trong lịch sử Ấn Độ: Đại đế Ashoka.
Được biết xa lộ cao tốc Xuyên Á (điểm cuối là TP.HCM - Việt Nam) có một đoạn đi ngang qua Nepal. Đoạn ấy nối vào Quốc lộ Mahendra và ngang qua Butwan. Hy vọng rồi đây khi xa lộ hoàn thành, người Việt Nam có thể đi bằng đường bộ vượt 3.000km đến thăm quê hương Đức Phật để cúng dường những di tích thiêng liêng và xá lợi của Đức Từ Phụ.


(Bài viết có tham khảo tư liệu của  Giáo sư Babu Krishna Rijal - Cục Khảo cổ Vương quốc Nepal, sách của các học giả Hermann Oldenberg,  H.W. Schumann, Từ điển Pali Proper Name, Hồi ký của các ngài Pháp Hiển - Huyền Trang và gia phả của họ Shakya tại Kathmandu).
NGUYỄN PHÚ

 

CHUYÊN ĐỀ LỊCH SỬ NEPAL: HỌ THÍCH-CA Ở KATHMANDU

Quý bạn đọc thân mến,
Cách đây hơn mười năm một "tiếng gọi" (the call) từ Himalaya đã vọng đến tác giả vào một buổi sáng tháng Giêng trong hình thức một làn hơi lạnh giá. Sau đó tác giả đã quyết định lên đường một cách trừu tượng mà không hề biết mình sẽ bắt đầu từ đâu và đi đến đâu. Để chuẩn bị cho chuyến đi này, tác giả đã soạn ra cả một danh sách dài những việc cần làm trong đó có cả việc học những kỹ năng viết lách, quay phim, chụp ảnh... và đã tiêu tốn bốn năm trời dành dụm tiền bạc và học hỏi mọi thứ (kể cả làm phóng viên cho một đài truyền hình để học kỹ năng, nghiệp vụ). Cuối năm 2005, tác giả đặt chân đến Nepal (Kathmandu và Lumbini) một cách bất ngờ không hề có sự chuẩn bị trước trong một chuyến đi độc hành nửa hành hương nửa để cầu siêu cho người mẹ vừa quá cố của mình. Tại đây tác giả đã nhận chân ra "tiếng gọi" vang vọng đến mình 5 năm trước, và chọn xứ sở này làm quê hương thứ hai. "Tiếng gọi" ấy đã tặng cho tác giả một chủ đề nghiên cứu cả đời (life time's subject): The Sakya (Họ Thích-ca).
  Sau 7 năm nghiên cứu, tác giả xin đưa lên đây những thu thập ít ỏi bước đầu của mình về một chủ đề có quá ít người tìm hiểu. Mong các bài viết này nhận được sự quan tâm của các bạn!
  Trân trọng,
  Nguyễn Phú

******************************************************
HỌ SHAKYA Ở KATHMANDU: PHẦN 1

Họ Thích-ca thuộc 18 bahal (tự viện) khắp Kathmandu tập trung cầu nguyện hàng tháng

Kathmandu Valley (Thung Lũng Kathmandu), thủ đô hiện tại của nước Nepal, vốn là một vương quốc nhỏ trong vùng Himalaya với tên gọi từ thời cổ đại (hơn 500 năm trước Công Nguyên) là Nepal-Mandala. Tên Nepal-Mandala bắt nguồn từ vị trí địa lý của thung lũng này với những dãy núi bao quanh giống như những cánh hoa sen trong một đồ hình mandala.
  Rất nhiều người biết đến chi tiết Kathmandu Valley là một mandala, nhưng không mấy người biết đấy là mandala gì... vì Mật tông Hindu và Mật tông Phật giáo có đến hàng vạn mandala. Câu chuyện về Mandala của Kathmandu xin bàn vào một dịp khác.
  Kathmandu Valley chính là nơi cư trú được chính thức ghi nhận của hậu duệ cộng đồng Sakya-Tộc họ đã sản sinh ra một trong những nhân vật nổi tiếng nhất lịch sử thế giới: Sakya Buddha (Đức Phật Thích-ca).
Sakya là viết theo tiếng Sanskrit hoặc Pali; Shakya là theo tiếng Newari-ngôn ngữ cổ đại của người bản địa Kathmandu Valley, cũng từ này phiên âm theo tiếng Hán là Thích-ca. Kể từ đây tác giả xin được phép dùng từ Sakya hoặc Shakya để dễ dàng cho bạn đọc khi tra cứu hay tìm kiếm về tộc họ này tại Kathmandu Valley hay từ các nguồn khác với nguồn Hán-Việt (điều này phát xuất từ kinh nghiệm thực tế của tác giả vì ngoài người Việt ra, chẳng một ai biết đến họ Thích-ca! Cũng như dùng các danh từ riêng theo tiếng nước ngoài không phải vì tác giả sính dùng ngoại ngữ).

  Nguồn gốc của tộc họ Shakya tại Kathmandu có thể truy nguyên về đến tận thời Sakya Buddha còn tại thế. Khi ấy vua Vidudabha của vương quốc láng giềng hùng mạnh Kosala đã tận diệt họ Sakya tại Kapilavastu (thành Ca-tỳ-la-vệ). Tộc họ Sakya mất nước đã phải lưu vong, tản mác khắp bốn phương trời. Một nhóm Sakya đã theo những con đường mòn của giới thương buôn vượt qua dãy núi Terai tìm đến Kathmandu Valley. Tại đây, một hoàng tử Sakya đã kết hôn với công chúa của vua địa phương tộc họ Kirat (tộc họ này thuộc sắc dân Naga sống trải dài từ Himalaya đến tận Việt Nam; người Việt là một nhánh của Naga di cư từ Himalaya- xin viết về chủ đề này trong một bài khác). Cộng đồng Sakya của Kathmandu Valley bắt đầu định cư và định hình, cũng như có ảnh hưởng quan trọng đến lịch sử Kathmandu suốt 2.500 năm nay.
  Cộng đồng Sakya lâu đời nhất thuộc về Chabahil. Theo ngôn ngữ Newari, bahil hay bahal tương đương với vihara của Sanskrit. Tuy nhiên, bahil hay bahal không phải một ngôi chùa hay tu viện (pagoda, monastery) dành cho giới tăng-ni như Phật giáo Bắc tông hoặc Nam tông. Nó là một kiến trúc khép kín với 4 dãy nhà xoay mặt vào một cái sân, trung tâm là một stupa (bảo tháp). 
Mô hình một Bahil
Bahal thì có quy mô lớn với các dãy nhà của tộc họ Shakya bao quanh ba cánh và một cánh dành cho ngôi chùa của họ. Bahil thì quy mô nhỏ hơn, hầu như gói gọn vào một ngôi chùa. Đúng nghĩa, bahil hay bahal là một ngôi nhà sinh hoạt chung của họ Shakya. Họ tụ tập tại đây để cầu nguyện, cúng dường, làm Phật sự hay chỉ đơn giản là sinh hoạt cộng đồng. Bahil và Bahal cũng có tăng ni cư trú để tu tập nhưng họ Sakya không có khái niệm "sư-ni trụ trì". Cho đến ngày nay (thế kỷ 21) họ Shakya vẫn duy trì truyền thống dân chủ cộng hòa của vương quốc Sakya xa xưa ở Kapilavastu. Mỗi cộng đồng có một vị thủ lĩnh (thường là vị cao niên nhất hoặc có uy tín nhất) gọi là Thakali. Thakali sẽ chủ trì các buổi cầu nguyện, cũng như các buổi họp cộng đồng trong đó quyết định sẽ cuối cùng tuân theo nguyên tắc đa số. 
Aarta Man Shakya-Thakali hiện tại của toàn bộ Shakya ở Kathmandu Valley

  Theo lịch sử Kathmandu, có 18 bahal thuộc họ Shakya được xem là chánh tông. Vấn đề chánh tông này xuất phát từ hơn 1000 năm trước, khi các vua trị vì Kathmandu Valley lập ra hệ thống Jati (caste theo tiếng Anh). Thực ra nếu dịch Jati /caste thành từ "đẳng cấp" hoặc "giai cấp" trong tiếng Việt thì chưa chính xác. Jati là hệ thống phân biệt nghề nghiệp; những nghề nào xã hội cần hơn, hàm chứa nhiều chất xám hơn thì được đánh giá cao hơn những nghề làm lụng tay chân hay nghề làm những việc thấp hèn. Trong hệ thống ấy, một số người theo Phật giáo của Kathmandu Valley được xếp vào họ Shakya-nghĩa là người theo đạo Shakya Buddha (giống như pháp danh với họ Thích của Phật giáo Bắc tông). Sự kiện này cùng với việc các bahil và bahal được xây dựng ngày một nhiều (trong đó có một số bahil, bahal không thuộc họ Shakya) đã dẫn đến việc họ Shakya thống nhất nhìn nhận trong toàn Kathmandu Valley chỉ có 18 bahal-bahil chánh tông. Và người của 18 bahl-bahil này mới thuộc họ Sakya chánh gốc.

30 tháng 12, 2012

NGƯỜI GURUNG ĂN TẾT CON RẮN SỚM NHẤT THẾ GIỚI!


Sống ở Nepal sướng vậy đó, ăn Tết hết tháng này sang tháng khác. Năm 2012 chưa chấm dứt mà đã được ăn Tết Con Rắn rồi!
Cũng giống như hầu hết các tộc người miền núi ở Nepal và Tibet, Tết của người Gurung gọi là Lhosar.
Tamu Lhosar mở đầu một năm mới theo Tamu Sambat (âm lịch của người Gurung). Lịch Gurung cũng có 12 con giáp gọi là lohokor với mỗi con giáp là lho (năm) như sau: Garuda (chim thần trong thần thoại Hindu), Rắn, Ngựa, Cừu, Khỉ, Chim, Chó, Nai, Chuột, Bò, Hổ, và Mèo. Chúng ta có thể thấy 12 con giáp này tương ứng với 12 con giáp của người Việt như: Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý, Sửu, Dần, Mẹo. Lhosar năm nay là năm 2597 lịch Gurung rơi vào ngày 15 tháng Push (30/12/2012) đón mừng năm con Rắn. Vậy là có thể coi người Gurung là tộc người mừng Tết Con Rắn sớm nhất thế giới!   

Một làng Gurung trên dãy Himalaya

  Gurung là một tộc người tự gọi họ là Tamu sống ở vùng Trung-Tây Nepal (chủ yếu là vùng núi lưng chừng 2000-3000m của dãy Himalaya), dân số vào khoảng 500 ngàn người, hoàn toàn theo Phật giáo Tibet.
  Trang phục dân tộc của người Gurung cũng đẹp sặc sỡ và độc đáo như bất cứ dân tộc nào ở Nepal. Đàn ông thì mặc bhangra (áo ngắn màu trắng) và kachhad (sà-rông). Phụ nữ thì mặc áo blouse nhung đỏ sậm, đeo trang sức hình đĩa bằng vàng và rất nhiều dây chuyền bằng đá bán quý.  
Trang phục cổ truyền của người Gurung



Ở các làng Gurung, người ta tập hợp tại khoảnh sân rộng giữa làng; ở Kathmandu, người Gurung tập trung ở quảng trường Tundhikhel để ăn Tết. Người Gurung ăn tết ba ngày. Hai ngày đầu diễn ra các cuộc thi cho cánh đàn ông như kéo co, bắn cung trong khi phụ nữ nhảy múa ca hát. Ngày thứ ba thường sẽ trao giải cho những ai thắng các cuộc thi và ăn nhậu tưng bừng khí thế để mừng năm mới. Chính thức là ba ngày nhưng thường thì dân Gurung cũng ăn Tết kéo dài 7-10 ngày (hết mùng như người Việt vậy!). Những ngày này là dịp dân Gurung đi thăm viếng lẫn nhau và tụ tập để ăn nhậu, bài bạc cho vui.


Nhảy múa giữa trời đất với ngọn Fish tail nổi tiếng phía sau

Thi bắn cung

Trang sức của các thiếu nữ Gurung



Nhảy múa là phần không thể thiếu của đời sống người Gurung

Các thầy tư tế Phật giáo cúng lễ với nhạc tôn giáo

Hoa khôi Gurung năm nay

29 tháng 12, 2012

ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO: CHẾT BỞI TAY TRUNG QUỐC!


ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO- HUYỀN THOẠI VÀ THỰC TẾ PHẦN 2

HÀNG ĐỂU MADE IN CHINA

Sau khi post hai bài về ĐTHT (đông trùng hạ thảo) có vài bạn thắc mắc cho rằng mình nổ chứ ĐTHT bán đầy ở các hiệu thuốc Đông Y chỉ vài chục triệu VNĐ/kg làm gì đến nỗi mấy trăm triệu một ký…
 
  Tháng Năm vừa rồi mình có dịp về VN, cũng tranh thủ thời gian đi kiểm chứng thị trường ĐTHT ở đây nhằm so sánh với thị trường Singapore, Thái Lan, India và Trung Đông là những thị trường mà mình đã có cơ hội cọ xát thực tế.

Hình minh họa từ Internet
  Địa điểm chính yếu nhất là chợ thuốc Đông y Hải thượng Lãn ông ở quân 5, Saigon. Hầu như tất cả các cửa hiệu ở đây đều có bán ĐTHT nhập từ Trung Quốc. Khi hỏi một bà chủ tiệm, bà đon đả mời ngồi và mở tủ kính lấy ra mấy hộp bằng giấy cứng hình thức thật sang trọng với mặt trên gắn kính để có thể nhìn thấy những con ĐTHT đặt trên nhung đỏ quý phái. Bà cho biết giá mỗi hộp 100g là hai triệu VNĐ (1000USD/kg). Mình sốc. Dù nhìn thoáng qua cũng biết hàng này chỉ là loại kém nhất về kích cỡ (size), màu sắc (màu nhợt nhạt) nhưng dù cho thế thì loại này ở Kathmandu, Nepal cũng không thể có giá dưới 15.000USD/kg. Mà đây lại là giá bán lẻ (nếu trả giá chắc còn bớt thêm 1-2 trăm ngàn VNĐ), thế thì các cửa hiệu ở đây phải nhập về với giá chỉ trên dưới 500USD/kg. Không thể tưởng tượng nổi.

   Không thể tưởng tượng nổi vì Trung Quốc không hề có ĐTHT ! Như đã nói qua trong bài trước, từ ngàn xưa các hoàng đế và đại tài chủ Trung Hoa chỉ có thể nhận triều cống hoặc mua ĐTHT từ Tây Tạng (Tây Tạng chỉ bị Trung quốc xâm chiếm từ năm 1959). Ngoài ra, trên thực tế tuy nói rằng khắp dãy Himalaya những nơi cao trên 3.000m đều có ĐTHT nhưng số lượng rất ít và không tập trung (chính vì thế ngày xưa mới quý hiếm). Duy nhất vùng Dolpa của Nepal giáp biên giới với Tibet là nơi tập trung và là nguồn cung cấp chính ĐTHT cho thị trường toàn thế giới ngày nay, chiếm đến hơn 80% sản lượng hàng năm(trên dưới 2,000kg). ĐTHT từ Tây Tạng cả năm chỉ thu hoạch được chừng 10kg, giá còn mắc hơn ĐTHT của Nepal vậy thì làm sao Trung Quốc có ĐTHT để xuất khẩu với giá rẻ bèo bọt như cho?


   Câu trả lời đơn giản đến bất ngờ.
   Quý ông ở Việt Nam chắc đều nghe đến món hải mã? Một cặp hải mã giá bét cũng vài ba triệu, thế nhưng bạn cũng có thể mua được những cặp hải mã (thiệt) với giá 1-2 trăm ngàn đồng thôi. Đó là những cặp hải mã đã được ngâm rượu, rồi sau đó tẩy rửa lại, phơi khô và bán với giá bèo. Chúng chỉ là những xác khô không còn “dược chất” nữa. ĐTHT giá bèo xuất xứ từ Trung Quốc cũng làm theo chiêu này đấy!

   Theo tiết lộ của một quan chức y tế Trung Quốc đã về hưu, vào cuối những năm 1990, chính phủ Trung Quốc đã giao ngành y tế nước này nhiệm vụ “hổ  trợ” các vận động viên Trung Quốc giành chiến thắng trong các cuộc đua tranh thể thao thế giới. Chương trình bí mật này đã triển khai nghiên cứu các loại dược liệu Đông y có khả năng giúp vận động viên đạt thành tích tốt nhất. Nói trắng ra là “doping”. Sự tuyệt vời của chương trình này là tìm ra các dược chất “doping” không bị phát hiện bới các xét nghiệm theo phương pháp Tây y. Cả thế giới đã từng bị “sốc” với kết quả của các vận động viên điền kinh Trung Quốc. Huấn luyện viên họ Mã đã lấp lửng “bật mí” rằng ông ta cho các vận động viên dùng máu rùa… Thực chất, vũ khí bí mật của các vận động viên Trung Quốc chính là ĐTHT .

   Thường cứ vào một năm trước khi diễn ra Thế Vận Hội Olympic, chính phủ Trung Quốc giao cho các thương nhân sang Nepal mua gom, vét sạch toàn bộ nguồn hàng. Số ĐTHT này được đưa đến Phòng Điều chế bí mật của Cục Thể thao thành tích cao. Tại đây, ĐTHT được trích ly toàn bộ các dược chất. Tinh chất ĐTHT sau đó được pha chế ra các loại thuốc tiêm, hoặc viên nén, hay dạng bột để vận động viên sử dụng như thuốc "doping". Đấy chính là nguyên nhân tại sao giá ĐTHT lại tăng đột biến cứ mỗi 4 năm theo chu kỳ Thế Vận Hội kể từ năm 2000 đến nay.
Thương nhân Trung quốc thu gom ĐTHT tại Nepal

   Trước kia, sau khi trích ly dược chất, xác ĐTHT bị đổ bỏ vì hết tác dụng. Nhưng với đầu óc ma mãnh của con buôn Trung Quốc cái bịch nylon rác rưởi còn tái chế được thì làm sao họ có thể bỏ phí mỏ vàng ĐTHT. Thế là có những đầu nậu thu gom các xác khô ĐTHT  để tái xuất bán ra các nước khác. Nguy hiểm nhất là : biết rõ tâm lý người mua ĐTHT nhằm tăng cường khả năng tính dục bọn đầu nậu này liền tẩm vào các xác ĐTHT những chất có công dụng như Viagra. Tội nghiệp cho các bác cứ tưởng rằng mình mua được ĐTHT thứ thiệt, vì dùng vào thấy “sung” quá, nào ngờ mua phải Viagra dỏm…
  Và có trời mới biết ngoài Viagra ra bọn gian thương này còn tẩm vào các xác ĐTHT những chất gì nữa!

   Các bác nhà mình chỉ nghi ngờ rằng đông trùng hạ thảo giả làm từ cây thạch thảo, hoặc những thứ giống đông trùng hạ thảo rồi cắm cỏ vào. Rồi truyền miệng rằng : "Cách xác định đông trùng hạ thảo thật sau khi đã... mua về: đem hầm rồi quan sát hình dạng, mùi. Đông trùng hạ thảo tốt là ninh lâu vẫn dai, không mủn, cọng cỏ ở đầu không nát, khi ninh toả ra mùi thơm, tanh như cá... "
  Bố khỉ, với cách dùng xác khô ĐTHT của các sư phụ Tàu ô thì các bác nhà mình có ninh, hầm vẫn cứ dính chưởng như thường!

29/12/2012

Nguyễn Phú



Còn đây là bài từ Sài Gòn Giải Phóng:
 http://www.sggp.org.vn/sggp12h/2007/6/105393/
"Loạn" đông trùng hạ thảo!
SGGP:: Cập nhật ngày 14/06/2007 lúc 14:56'(GMT+7)
Vì lời đồn thổi bổ dưỡng "gấp trăm lần nhân sâm" nên thời gian gần đây, nhiều người đổ xô săn lùng "biệt dược" đông trùng hạ thảo. Có người cần thiệt, nhưng cũng có người mua cho biết bởi "hổng bổ bề ngang thì cũng sang bề dọc". Chưa biết đông trùng hạ thảo bổ dưỡng đến mức nào, chỉ thấy nhiều khách hàng đã bị loại "biệt dược" này bổ… vào túi nhát nào nhát nấy đau điếng! 
  •  Mê cung "biệt dược"
 Trong một lần ngồi nhậu, sếp của tôi được nhóm đàn em hồ hởi chào hàng một loại rượu thuốc gọi là… đại bổ. Chung rượu chỉ lưng lưng tách trà nhưng có giá đến… 200.000đ. Thấy chúng tôi tròn mắt, ông chủ quán bật mí: "Mắc vậy mà không phải ai cũng có đâu nhé, đại bổ đông trùng hạ thảo, hàng nhập từ Trung Quốc hẳn hoi".
 



Tuyến Triệu Quang Phục và khu phố đông y trên đường Hải Thượng Lãn Ông, quận 5 được xem là trung tâm mua bán đông trùng hạ thảo nhộn nhịp nhất. Vào nhà thuốc K.D (đường Hải Thượng Lãn Ông), nghe chúng tôi tìm đông trùng hạ thảo, cô bán hàng liền bốc điện thoại và bảo chúng tôi ngồi đợi, sẽ có người mang hàng đến. Hơn 20 phút sau, chị chủ hàng chừng 40 tuổi tên D. đưa chúng tôi xem hàng: đông trùng hạ thảo đóng trong hộp gỗ bằng bàn tay màu đỏ sậm, bên ngoài có hàng chữ Trung Quốc, dưới đáy hộp có miếng vải lót và 1 gói hút ẩm. Hộp này là một lượng (khoảng 80-90 con), được chào giá 2 triệu đồng. Chê mắc, chị D. bảo: "Giá này là thấp nhất rồi đó, vì đây là hàng nuôi chứ không phải hàng trong tự nhiên. Nếu em muốn lấy hàng tự nhiên, chị cũng có nhưng giá hơn 3,5 triệu đồng/lượng". "Chị có hàng của Hàn Quốc không"? Vừa nghe tôi hỏi, chị D. giãy nãy: "Trời, Hàn Quốc làm gì có đông trùng hạ thảo? Loại này chỉ Trung Quốc mới có thôi (!?). Em phải xem hàng cho kỹ, không thôi là bị lừa như chơi đấy". Viện cớ phải hỏi lại thầy thuốc, chúng tôi ra về, chị D. liền đưa số điện thoại và dặn: "Em về bàn thêm với người nhà, nếu cần thì cứ a lô một cái, chị sẽ giao hàng tận nhà".

Tại nhà thuốc H., bà chủ chào hàng loại hộp 5 chỉ của Hàn Quốc(?) giá 750.000đ (150.000đ/chỉ). Thấy tôi không "mặn", bà đưa gói hàng 2 chỉ đựng trong bọc nhựa (tôi đếm được đúng 20 con), bên ngoài chi chít chữ, bảo: "Em lấy hàng này xịn hơn. Hàng này của Hồng Công, mấy ngày nay chị bán hút lắm, giá 380.000đ (190.000đ/chỉ)".
 Tại chợ An Đông, mỗi gói đông trùng hạ thảo 2 chỉ (khoảng 20-25 con) được "hét" giá 1,5 triệu đồng. Tìm mua loại hảo hạng để biếu sếp, bà chủ gần 50 tuổi liền đưa cho tôi hộp đông trùng hạ thảo 1 lượng chi chít chữ Trung Quốc, màu sắc sặc sỡ, xởi lởi: "Em nên lấy loại này, chị bảo đảm… chất lượng hơn hẳn. Vì con lớn hơn (cỡ 1/4 con nhộng tằm) nên tích tụ được nhiều chất bổ hơn, hàng này là "chất lượng 5 sao" đó nghen". Cái giá của gói... "5 sao" này mới nghe qua tôi đã đổ mồ hôi hột: "chỉ có"… 15 triệu đồng! 
  • Thật giả khôn lường… 

Mua ĐHT tại cửa hàng động dược đường Hải Thượng Lãn Ông. Ảnh Đ.T

Vòng quanh trung tâm mua bán đông dược nhộn nhịp nhất này, chỉ chuyện hộp đông trùng hạ thảo "hảo hạng" 1 lượng, nhưng chúng tôi được chào nhiều giá khác nhau. Có quầy một, hai triệu đồng nhưng cũng có quầy "hét" đến… một, hai chục triệu đồng. So với nhân sâm thì mức giá này cao gấp cả trăm lần. Giải thích điều này, các chủ quầy thuốc đều có cùng câu "tiền nào của nấy đó"!

 Chủ một nhà thuốc trên đường Triệu Quang Phục giải thích rất cặn kẽ: "Muốn hái đông trùng hạ thảo, người ta phải lên tận vùng núi cao, xa xôi hiểm trở. Cả một cánh rừng rộng lớn, thường người nào giỏi lắm cũng chỉ tầm được chừng vài trăm gram. Hái về, người ta phải phân loại lớn nhỏ khác nhau, sau đó là vận chuyển từ Trung Quốc qua Việt Nam. Qua biết bao nhiêu mối lái, nó mới ra được tới chợ. Tìm được nó công phu và… trần ai như vậy, biểu sao mà giá không mắc"?! Một khách hàng nãy giờ nghe chuyện, bỗng quay sang tôi bỏ nhỏ: "Mặt hàng này bây giờ loạn lắm. Có trời mới biết đâu là hàng thật, đâu là hàng giả. Mình là dân tay ngang không thể nào biết được đâu".

Một thầy thuốc đông y ở đường Hải Thượng Lãn Ông kể, nhiều người sau khi mua đông trùng hạ thảo đã tìm đến ông nhờ kiểm chứng xem là hàng thật hay giả. Kết quả, trong 10 trường hợp ông từng xem giúp, thường chỉ có 1-2 trường hợp là "mua được hàng có chất lượng". Chính vì giá cao như vậy nên đông trùng hạ thảo là dược phẩm cao cấp được làm… giả nhiều nhất!. 
MINH AN

 Theo nhà thuốc Đồng Nhân Đường (Bắc Kinh) ở Trung Quốc 3 vùng có ĐTHT nổi tiếng: Tây Tạng, Thanh Hải và Tứ Xuyên. ĐTHT có màu nâu hoặc vàng nhạt. Độ dài khoảng 4-5cm, khối lượng từ 0,3g đến 1g, có 8 đôi chân, nhưng thường chỉ nhìn rõ được 4 cặp. Giá bán của 1g ĐTHT tại Trung quốc loại tốt 1 con = 1g thì giá là 360 tệ, khoảng 700.000 VNĐ. Loại kém chất lượng hơn thì 3-4 con = 1g giá khoảng 100 tệ trở lên (khoảng 200.000 VNĐ). ĐTHT loại tốt là loại có đạm cao. Theo kinh nghiệm, ĐTHT loại tốt được đánh giá trên phần con sâu càng dài, càng mập và phần cây càng ngắn là tốt. Ngược lại thì ĐTHT sẽ kém chất lượng hơn. Do giá cao, nhu cầu nhiều, trong thời gian qua, tại Trung Quốc đã có một số trường hợp bán ĐTHT kém chất lượng, hàng giả. Hàng giả có thể làm bằng thân củ địa tàm và thạch thảo hoặc bằng bột ngô, mì… màu sắc trắng hoặc vàng nhạt, nặng hơn hàng thật. (T.Đ)

22 tháng 12, 2012

BÃI BIỂN DÀI NHẤT THẾ GIỚI: COX's BAZAR - PHẦN 2


 DỌC ĐƯỜNG GIÓ BỤI: TẮM BIỂN KIỂU BANGLADESH


Bangladesh là một nước Hồi giáo, theo phong tục Islam, phụ nữ khi ra đường phải che kín 100%. Tuy thế, chiếc áo choàng đen với khăn trùm đầu chỉ hở đôi mắt sâu thẳm không ngăn chặn được sức hấp dẫn tự nhiên của phái đẹp đối với mình mà chỉ càng thêm cuốn hút, quyến rũ mình lao về họ như một con thiêu thân không sợ lửa. Bangladesh hiện đại đã có nhiều phụ nữ đi làm ở công sở, vả lại luật lệ đạo Hồi xứ này cũng không quá nghiêm khắc như ở Pakistan hay Afghanistan, cho nên tỷ lệ phụ nữ đeo khăn trùm đầu cũng không còn chiếm đa số. Dù vậy, ngoại trừ khuôn mặt tuyệt đẹp ra, bạn sẽ không thể nhìn thấy bất kỳ phần thân thể nào của phụ nữ ở đây. Ở Ấn Độ, bạn có thế ngất ngây trước những vòng eo tuyệt mỹ, những bờ vai trần hoàn hảo, những tấm lưng nuột nà không tỳ vết hay cả đôi gò bồng đảo nóng bỏng bên dưới chiếc áo cánh cách điệu chỉ nhỉnh hơn chiếc áo ngực tý xíu của những giai nhân tuyệt sắc những khi chiếc sari của họ hững hờ buông thả. Phụ nữ Bangladesh cũng choàng sari, nhưng bên trong là cả bộ áo dài kín đáo, không hở một centimetre nào cho các đôi mắt phàm tục như mắt của mình lợi dụng. Tối đa, bạn chỉ có thể ngắm một cách kín đáo gương mặt và đôi tay của họ; nhìn chằm chằm vào khuôn mặt của một phụ nữ không phải vợ mình là một hành động khiếm nhã và vô cùng xúc phạm đến những thân nhân là đàn ông của họ- và điều ấy có thể tước đi cuộc đời tươi đẹp của bạn.
  Đêm ấy thức khuya, mình ngủ chập chờn với giấc mơ về một bãi biển tràn ngập những người đẹp Bangladesh mặc những bộ bikini tung tăng trên cát nóng… giống như bãi biển Mumbai…

  Anh chàng Mafuzur ngủ nướng nên mãi tới hơn 8 giờ sáng bọn mình mới ra tới bãi biển. Hôm ấy là ngày thứ sáu, ngày nghỉ hàng tuần của dân Bangladesh nên bãi biển Cox’s Bazar khá đông các gia đình từ Chittagong đi nghỉ mát (giống như dân Saigon đi chơi biển Vũng Tàu vậy). Mình háo hức đi thật nhanh xuống bãi cát vàng rực rỡ dưới mặt trời mùa đông để chứng kiến giấc mơ của mình đêm qua thành sự thực… Ha ha… Bé cái nhầm! Nói theo kiểu “Chiếc nón kỳ diệu” là: “Bikini? Không có một chiếc bikini nào cả!”... Hi hi, câu “nothing” của anh chàng Sak quá đúng.  

Nam phụ lão ấu… tất tần tật mặc quần áo nghiêm chỉnh như đi hội chợ… lũm chũm chạy xuống, sóng nước chỉ vỗ tới mắt cá chân đã cười ré lên vội vã chạy trở lại. Thi thoảng có một vài người dám ra xa hơn chừng 5-7m, nơi nước ngập tới … đùi… rồi đứng đó chờ sóng biển đến mà nhảy sóng … rồi cười sung sướng mãn nguyện… Tắm biển kiểu Bangladesh là như vậy đấy!   




  
Dân Bangladesh thật là hoang phí!
Sở hữu một bãi biển số một thế giới mà không tận hưởng cái thú vui đùa cùng sóng nước. Sở hữu những người đẹp làm phái mày râu thót tim mà không hề khoe ra… (để mình có dịp ngắm trộm… hu hu buồn năm phút). Sở hữu nguồn hải sản phong phú, đa dạng không thua kém Việt Nam mình mà không biết thưởng thức các món luộc, hấp, nấu lẩu, kho, nấu hủ tiếu hải sản, nấu canh chua, nướng, làm mắm… Phí quá!
Hai cô nàng hở hang nhất bãi biển ngày hôm ấy...

  Mình xách cái handycam lượn vòng vèo từ đầu xóm-nhúng-nước-biển đến cuối xóm-chạm-nước-biển. Tuyệt không thể tìm ra một chị em nào dám mặc… mà nói gì phái nữ, kể cả đàn ông cũng không ai cởi trần. Chán ơi là chán. Chán đến nỗi mình cũng không tắm biển luôn. Thứ nhất là nếu mình cởi trần thì sợ sẽ bị bắt vì tội… “công xúc tu xỉ”  he he… Thứ nhì: không có chỗ tắm nước ngọt! Một lần nữa anh chàng Sak lại nói đúng. Mặc nguyên bộ đồ mà dầm nước biển rồi phải lội bộ hơn cây số về khách sạn để tắm nước ngọt rồi lại lóc cóc quay xuống đây thì chết còn sướng hơn.
Không tắm, thế là mình muốn đi dọc theo bờ biển ngắm cảnh. Mafuzur gọi một chiếc auto-ricksaw made in China rồi cả hai lên đường. Xe chạy tà tà trên con đường nhựa nhỏ dọc theo bờ biển ngăn cách bãi cát vàng và dãy đồi thấp.


Bên này là gò đồi hoang vu, sau mươi km lại nhường cho những làng xóm bình dị. Bên kia, bọt sóng trắng nối tiếp bọt sóng trắng như những chiếc hôn cuồng nhiệt biển Bengal gửi cho bờ cát vàng yểu điệu. Thi thoảng, một khoảng vườn dừa thơ mộng làm chỗ nghỉ chân cho những tâm hồn lãng mạn. Rồi những xóm chài nhỏ bé với những chiếc thuyền hai mũi cong cổ truyền của ngư dân Bangladesh đủ để cho các phó nháy chụp cả ngày mà triển lãm...




  Chốc chốc, một người dân địa phương bày trên lớp rơm mỏng bên vệ đường những quả dưa chín mọng xanh vỏ đỏ lòng, ngọt lịm tận kẽ răng được trồng ngay trên bãi cát vàng gần đó. Thế là mình được ăn Tết sớm. Bạn cũng có thể dừng chân nơi một vườn dừa và yêu cầu chủ vườn leo lên bẻ dừa cho bạn. Haiza, kỳ này dân Bến Tre trổ tài nha. Anh chàng chủ vườn đu bên dưới bẹ lá theo yêu cầu của mình bẻ thử một trái ở từng quài quăng xuống, mình búng búng vỏ dừa rồi phán cái này chưa có cái (còn non theo cách nói của dân xứ dừa tức chưa có cơm dừa); cái này nạo (cơm dừa vừa ăn); cái này cứng cạy (cơm dừa dày ăn không ngon)… Dĩ nhiên là giải thích vòng vo bằng tiếng Anh bồi rồi… Mấy chục năm xa quê, hổng ngờ không bị lụt nghề …làm mấy anh chàng địa phương mắt tròn mắt dẹt thán phục… Chỉ tiếc là bây giờ già rồi, lại mập ú nữa nên không còn leo dừa được, nếu không mấy anh chàng địa phương này phải lé mắt luôn trước các tuyệt chiêu của dân xứ dừa…
Dưa hấu đêêê... ăn Tết sớm đêêê

   Nếu đi vào các làng chài vào buổi sáng hay chiều bạn có thể mua được hải sản tươi rói mới đánh bắt từ biển về. Nhớ kỷ niệm hai mươi năm trước mình về quê thằng bạn đại học ở Vạn Giã, Vạn Ninh, Khánh Hòa. Ngày nào cũng được ăn cá thu tươi, mực tươi hấp chấm nước mắm sống. Bước vào một chợ làng ở đây (Cox’s Bazar), cũng đầy đủ cá mực tôm tép tươi chong… Thế là lên kế hoạch cho tháng tới về đây sẽ không ở khách sạn mà sẽ vào trong làng mướn nhà ở trọ, mặc sức mà nấu nướng theo kiểu Việt Nam he he…
   Thực ra nếu muốn tắm trần (với quần áo tắm, dĩ nhiên) bạn chỉ cần chịu khó đi xa ra khỏi thành phố và làng mạc. Mình đã nghĩ ra chiêu chở theo hai can 20l nước ngọt để tắm lại và mang theo mấy cái võng cho lần sau về Cox’s Bazar (tốt hơn nữa là có một thùng bia và dụng cụ để nướng thức ăn ha ha). Còn đơn giản hơn nữa là tắm đêm, tuy nhiên ở đây đêm xuống biển cả tối mịt mù với lại còn sợ “cá lạ” nó rỉa cho một phát thì toi, nên không tắm đêm cho nó lành hi hi…
  Phải cảnh giác với người địa phương nha bạn!(nói đùa nha...) Lonely Planet ấn bản mới nhất về Bangladesh xuất bản năm… 2008 nói rằng dân Bangladesh rất tò mò và sẽ bu kín lấy người ngoại quốc. He he… năm 2012 không đến nỗi như vậy nhưng quả thực là dân Bangladesh rất tò mò và thích tiếp xúc với người nước ngoài, dù là “Tây mũi tẹt da vàng” như mình. Ở Nepal, mình thường bị nhầm là người bản xứ, trong khi ở Bangladesh cái mặt của mình từ xa một cây số cũng dễ dàng nhận ra là người nước ngoài giữa đám đông người bản xứ có màu da bánh mật nồng nàn, mắt to sâu, mũi cao.  Câu thường xuyên bạn bị hỏi là: “Anh từ đâu đến? Bangladesh thế nào? Đẹp hông?”  Tuy đen so với dân Việt nhưng dân Bangladesh da sáng hơn người ở Nam Ấn Độ và tóc thẳng chứ không xoăn. Có lẽ, người Bangladesh là hợp chủng giữa Dravidian (dân Nam Ấn có nguồn gốc từ Phi Châu) và dân Mon-Khmer (Miến Điện).

Nụ cười hồn nhiên của các em bé địa phương

  Biển ở đây có màu xanh da trời hơi ngả sang màu ngọc bích. Bờ cát dài không ô nhiễm, không rác rưới, không bịch nylon. Nước trong văn vắt. Quả là Thiên đường cho dân mê biển. Nói rằng bãi biển Cox’s Bazar còn hoang sơ là nói ở thì hiện tại và quá khứ, chứ tương lai gần thì không còn bao xa… Mình chỉ đi dọc theo con đường nhựa nhỏ chạy song song theo bờ biển vài chục cây số, thế mà đã thấy toàn bộ đất đã được chia lô xí phần, có khoảnh đã bắt đầu xây dựng các resort, hotel 5-7 sao, có khoảnh vẫn còn là các trại cá giống nhưng cũng chỉ là tình trạng xí phần đã diễn ra ở Nha Trang hơn chục năm trước. Mafuzur bảo rằng cách đây vài năm giá đất dọc theo con lộ này rẻ bèo chỉ 1-2 ngàn đô 1000m2. Nay thì rớ vào là phỏng tay. 100 ngàn đô 1000m2 và đang lên giá từng ngày. Anh bạn trẻ của mình cũng chốp được một lô đất từ tiền lời của vụ kinh doanh đầu tiên (mình sẽ kể sau về anh chàng này và thế hệ của anh ta được gọi bằng nick “The Campus Generation” ở Bangladesh. Rất đáng cho các bạn trẻ tìm hiểu). Lô đất của Mafuzur không nằm ở mặt tiền, nhưng hắn kiếm thêm được một apartment nhìn ra biển ở một building cao cấp đang xây dựng. “Năm sau anh về đây thì khỏi phải ở khách sạn.” Hắn cười hãnh diện.    





  Năm 2011, Cox’s Bazar cũng lọt vào tầm ngắm của New Open World Corporation (NOWC) –Tổ chức lừa đảo bầu chọn 7 kỳ quan thế giới mới. (Đã là kỳ quan của Tạo hóa mà còn bầu chọn thì bùn cời hỉ?)   May mà chính phủ Bangladesh tỉnh táo, người dân không mù quáng mê muội nên không có những tên bố láo nhắn hàng trăm nghìn tin nhắn bầu chọn và ép nhân viên cũng phải nhắn tin bầu chọn hay có những ông quan đầu đất làm trò khỉ mang cả đứa bé miệng còn hôi sữa ra bấm tin nhắn như trường hợp Vịnh Hạ Long. Thế là NOWC lẳng lặng cút khỏi Bangladesh đồng thời xóa tên Cox’s Bazar ra khỏi danh sách dỏm 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới. (Ở một bảng xếp hạng khác không cần bầu chọn, Cox’s Bazar xếp chung nhóm với Vịnh Hạ Long trong mục Kỳ quan tự nhiên châu Á. Châu Á thôi chứ chẳng thế giới, thế gian gì ráo trọi). Bangladesh đâu có cần mua cái bánh vẽ của NOWC! Hữu xạ tự nhiên hương, các tập đoàn du lịch hàng đầu thế giới tranh nhau đầu tư hotel, resort, hàng triệu du khách hàng năm nườm nượp tìm đến nơi này.
   Điểm kết thúc của bãi biển dài nhất thế giới Cox’s Bazar là Teknaf, cũng là điểm cực nam trên đất liền của Bangladesh, ngăn cách với Myanmar bằng một biên giới tự nhiên: con sông Naf. Đến đây bạn sẽ có thể có thêm một cuộc phiêu lưu cảm giác mạnh: thuê thuyền đi ngược dòng sông Naf giữa hai quốc gia Bangladesh và Myanmar. Chuyến đi này chỉ dành cho những tay ưa mạo hiểm, điếc không sợ súng… từ lính biên phòng cả hai bên Bangladesh và Myanmar… Nghe mà ham rồi lại sợ. Hổng biết lần sau về Cox’s Bazar mình có dám đi không nữa…

  Rồi nếu chán cảnh lang thang “bờ cát dài phẳng lặng” (Xuân Diệu), bạn có thể theo tàu ra các hòn đảo. Nổi tiếng nhất chính là đảo Saint Martin với những rạn san hô và rùa biển, với những con suối nước ngọt nơi bạn có thể tắm tiên…

  Xe chạy hơn tiếng đồng hồ, 30km, mà bờ cát vàng vẫn mời gọi đi mãi đi mãi… Sợ xe hết… pin nên mình bảo Mafuzur nói tài xế quay xe về (thực ra mình sợ phải đẩy xe he he)… Đây là loại xe tuk-tuk do Trung Quốc chế tạo chạy bằng bình ắc-quy, giá rất rẻ chừng trên dưới 1000USD; hiện đã bắt đầu phổ biến khắp Bangladesh (mình sẽ nói về xe cộ và giao thông ở Bangladesh ở bài khác). Ưu điểm của loại xe này là không khói, không tiếng ồn. Mỗi lần sạc đầy bình accu có thể chạy … từ sáng tới tối – bác tài nói vậy. Nhưng khi mình hỏi tiếp chạy cả ngày chừng bao nhiêu cây số, bác ấy hồn nhiên nói chừng trên dưới 50km… Hú hồn! Đẩy cái xe Trung Quốc mắc dịch này suốt 50km về lại thành phố chắc cặp giò mình xin nghỉ hưu non…

   Nếu thích một bãi biển hoang sơ đẹp đến nao lòng, nếu muốn tìm kiếm cảm giác thanh bình yên ả, hay tận hưởng một tuần trăng mật “độc” suốt đời không thể nào quên thì Cox’s Bazar là nơi xứng đáng cho bạn tìm đến. Nhanh lên bạn! Cox’s Bazar đang lột xác từng ngày từ một cô gái chân quê chất phác thật thà trở thành một quý bà thành thị diêm dúa. Không lâu nữa đâu, những cảnh đẹp thơ mộng này rồi chỉ còn là ký ức đẹp đẽ giống như đã từng xảy ra với những bãi biển xô bồ ngày nay ở Việt Nam.