Hiển thị các bài đăng có nhãn Sakya. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sakya. Hiển thị tất cả bài đăng

23 tháng 10, 2012

DASHAIN- TẾT NEPAL: NGÀY THỨ 9 MAHA NAVAMI - DIỆN KIẾN LIVING GODDESS KUMARI

Kumari trong một lần ra ngoài dự lễ
  Kumari là Nữ thánh Sống duy nhất không chỉ của Nepal mà toàn thế giới. Chiêm bái Nữ thánh sống Taleju vào ngày Navami, đỉnh của các nghi thức chiêm bái thần linh, đấy mới chính là dân Kathmandu sành điệu!    
   Bước vào bên trong Kumari Ghar, tôi hồi hộp di từng bước chân. Đây là nơi mà các nhà vua trước đây và cả Tổng thống hiện nay cũng phải đến hàng năm vào dịp lễ hội Indra Jatra để nhận tika ban phúc của Kumari như là một sự chuẩn thuận từ Nữ thần hộ quốc cho sự cai trị của họ trong một năm.
 Tôi có lẽ là người ngoại quốc đầu tiên vào được căn phòng Kumari ngự và đảnh lễ Nữ Thánh Sống.
Phải mất bảy năm tôi mới thực hiện thành công kế hoạch diện kiến Kumari Kathmandu. Cái giá không phải là quá đắt! 



Hôm này là ngày thứ chín của Lễ Hội Dashain, gọi là Maha Navami – nghĩa là Ngày Thứ Chín Vĩ Đại. Các nghi lễ cúng bái Nữ thần lên đến đỉnh điểm trong ngày này.




  Từ sáng sớm hàng đoàn tín đồ Hindu đã kéo đến cúng bái tại các đền thờ của các nữ thần Dakshinkali, Guheshwari, Maitidevi, Kalikasthan, Naxal Bhagawati, Bhadrakali, Shobha Bhagawati, Bijyeshwori, Indrayani, Naradevi, Bajrabarahi, Raktakali, Bajrayogini and Sankata .Theo phong tục, các tín đồ dâng cúng lễ vật và tụng đọc kinh Durga Saptari.
Xếp hàng cả cây số để vào chiêm bái đền Taleju
Ngày này quan trọng vì Nữ thần Chamunda đã giết chết được quỷ vương Raktabji(một biến thể của huyền thoại Durga và chính Chamunda cũng là một hóa thân của Durga).
Việc hiến tế súc vật tiếp tục diễn ra trong ngày này, đặc biệt là tại các Dashain-ghar và Kot (doanh trại quân đội) và các đền miếu thờ Durga và các hóa thân của bà như Kali, Taleju. Thú vật được hiến tế lên Nữ thần Durga ngày hôm nay để mong sự bảo hộ của Nữ Thần cho xe cộ và người sử dụng chúng.Gà, vịt, dê, cừu, trâu bị chặt đầu khắp nơi để hiến tế. Người không sát sanh thì hiến tế bằng cách đập vỡ một trái dừa (tượng trưng cho đầu Quỷ Vương) , một quả trứng hay một bầu nước.
Cũng vào ngày Navami, Vishworkarma, Thần Sáng Tạo – thần của thợ thủ công và xây dựng, được các thợ thủ công, thợ máy, doanh nhân cúng bái thông qua các công cụ lao động, máy móc, vũ khí, xe cộ.
Đặc biệt trong ngày này ngôi đền Taleju Bhawami nổi tiếng trong quần thể cố cung Hanuman Dhoka của các vua Malla được mở cửa một ngày duy nhất trong năm để dân chúng vào chiêm bái Nữ thần Taleju. Đây là ngôi đền dành riêng cho vua và hoàng tộc (cả Malla và Shah-Gorkha) cúng tế Taleju, hóa thân của Durga và là thần hộ quốc của Nepal. Vị nữ thần Taleju này gắn liền với Mật Tông đặc biệt của các vua Malla và Kumari-Nữ thánh sống nổi tiếng chính là hiện thân của Nữ thần Taleju (xin có bài viết riêng về Mật Tông Malla, Nữ thánh sống Kumari và ngôi đền Taleju sau).
Dân chúng kéo vào đền Taleju để chiêm bái

Đã có kinh nghiệm nhiều năm trước và có mục tiêu đặc biệt trong năm nay nên tôi chọn buổi xế chiều để đến quần thể cố cung Malla.
 Có một quy định rất khắc khe là cấm người ngoại quốc vào bên trong các ngôi đền thiêng Hindu; chủ yếu là Tây phương mắt xanh mũi lỏ, nhưng để khỏi bị khiếu nại nên cấm luôn ngoại quốc da vàng mũi tẹt.
 Ngay từ năm đầu tiên sống ở Nepal tôi đã tìm ra cách lách qua cái quy định buồn cười này. Rất nhiều lần tôi đứng trước cổng đền và bị chặn lại, phải ấm ức quay về. Cho đến khi một anh chàng họa sĩ Nepal đùa vui tếu táo: “You look like Nepali 100% - Mày giống hệt một thằng Nepali.” Tôi nảy ra ý tưởng và áp dụng thành công cho đến bây giờ.
Bảo vệ canh gác cẩn mật cổng vào đền Taleju

  Tại sao tôi bị chặn lại? Phải chăng vì cái dáng bộ lơ ngơ, nghiêng nghiêng, ngó ngó, tay lăm lăm cái máy ảnh thấy gì cũng chụp? Cái dáng bộ ấy cách xa hàng cây số đã ngửi ra là một thằng ngoại quốc, hay khách du lịch. Chỉ cần là ngoại quốc là đủ.Có ai hỏi quốc tịch đâu?  
   Thế là tôi đóng vai một anh chàng câm (vì đâu có biết nói tiếng Nepali hay Hindi) tay bưng đĩa lễ vật ready-made mới mua của người bán rong, mắt nhìn thẳng không láo liên xung quanh,cứ đàng hoàng đi qua trạm gác và mấy anh chàng bảo vệ hách xì xằng vào thẳng trong các đền cấm. Bằng chiêu người-câm này tôi đã lọt vào tất cả các đền thiêng ở Kathmandu, kể cả Pashupatinath là ngôi đền canh giữ cẩn mật nhất bằng cả một đại đội cảnh sát dã chiến.
   Tôi đã vào cúng bái đền Taleju hầu như mỗi năm khi ngôi đền này mở cửa cho công chúng lần duy nhất trong năm vào ngày Navami, (năm nay tôi có mục tiêu khác nên đến đây vào buổi chiều). Thời điểm tốt nhất là sáng tinh mơ, chừng 5 giờ, giờ chỉ có tín đồ ngoan đạo mới đi trong sương lạnh vào cúng sớm. Giờ này thì mấy anh chàng trật tự mới khởi động nên cũng không gay gắt lắm, cái gì cũng cho qua. Vả lại họ sẽ không đề phòng khách du lịch hay người nước ngoài chịu khó dậy sớm chen lẫn vào đền. Tôi cứ câm nín lẳng lặng đến xếp hàng vào đoàn người rồng rắn di chuyển từng bước một theo cạnh tường ngôi đền để lọt qua cổng đền. Sau đó leo từng bậc thang đá lên ba tầng cấu trúc như Kim tự tháp Nam Mỹ. Cuối cùng đến được ngôi đền hoàn mỹ trên đỉnh. Cũng chỉ có một cửa phía Bắc mở ra cho dân chúng, ba phía còn lại vẫn đóng kín. Mỗi người chỉ có chưa đến 1 phút để liếc qua cái khám thờ nhỏ ngăn riêng ra cho dân chúng ở giữa là cái bệ thờ phủ vải đỏ trên đó đặt một mặt nạ cổ bằng đồng chân dung của Taleju, cùng với bình nước thánh. Tín đồ đứng ngoài bệ cửa dâng lễ vật qua tay mấy ông Brahmin và hướng về bàn thờ khấn vái, rồi phải dời đi ngay lấy chỗ cho người kế tiếp.
  Sau khi cúng bái Taleju, mọi người lại phải xếp hàng đi qua cửa hông thông với cố cung, xuyên qua các hành lanh của các cung để ra ngoài thông qua cổng chính của hoàng cung là Hanuman Dhoka (Cổng Thần Khỉ).
  Lối ra này có đi xuyên qua một cung gọi là Mul Chok. Đấy một cung điện kiến trúc theo lối Newar (văn hóa của cư dân gốc Newari của Thung Lũng Kathmandu) với bốn dãy nhà bao quanh một cái sân hình vuông 12x12m lát đá. Đấy là nơi hiến tế Taleju vào nửa đêm giữa Ashtami và Navami. 54 con trâu và 54 con dê đã bị chặt đầu tại đây vào đêm này hàng năm. Đầu và thân của chúng đã được mang đi trước khi tín đồ đầu tiên vào cổng đền Taleju. Bột mùn cưa thấm đẫm máu của chúng tạo thành một thứ bùn đặc nâu sẫm trên khoảnh sân lát đá. Máu bắn cả lên các bức tường. Tôi bước chậm lại, miệng lầm rầm niệm chú đại bi cầu nguyện cho vong hồn của chúng sớm được siêu sinh.
   Cái cung điện Mul Chow này cũng chính là nơi diễn ra nghi lễ bí mật cuối cùng để lựa chọn một Kumari mới. Cô bé gái bị đặt ngồi một mình trong căn phòng tối nhìn ra khoảnh sân ngập máu giữa hàng trăm chiếc đầu mắt mở trừng trừng của đàn súc vật vừa bị hiến tế. Nếu cô không sợ hãi, bình thản ngồi trong im lặng chết chóc đó cho đến khi các thầy tư tế hoàng gia hoàn thành buổi cầu nguyện bên đền Taleju quay trở lại, cô đã vượt qua cái test cuối cùng để trở thành Kumari, hiện thân sống của Taleju-Durga, Nữ thánh sống bảo hộ cho Thung lũng Kathmandu.
   Thế nên, với dân Kathmandu chính gốc, đến chiêm bái Nữ thánh Taleju sống, Kumari, mới chính là tột đỉnh của các nghi thức cầu nguyện nữ thần trong ngày Navami cũng như như suốt mùa Dashain.
   Kumari Ghar thì nằm ngay quảng trường hoàng cung, cách đền Taleju khoảng hơn trăm mét. Đây là một kiến trúc cổ Newari nửa chùa nửa nhà ba tầng. Rất nổi tiếng đối với du khách ngoại quốc như là Cung điện của Kumari. Hàng ngày, lối 4 giờ du khách ngoại quốc chen chúc trong cái sân bên dưới ngóng cổ nhìn lên khung cửa sổ 3 phần liên hoàn để thấy Kumari ló mặt ra nhìn xuống trong vài giây rồi biến mất. Nghiêm cấm chụp hình, và quy định này được giữ rất ngặt nghèo bởi mấy anh chàng bảo vệ Kumari Ghar đứng lẫn với du khách. Thoáng thấy cái bóng đỏ của Kumari rồi thì đám du khách đành phải tiu nghỉu ra về.
Xếp hàng vào bên trong chiêm bái Kumari -Cái biển đỏ viết "NO ENTRANCE FOR FOREIGNERS", anh chàng bảo vệ chỉ cho mỗi lượt 5 người vào sau khi có 5 người ra

   Tôi đến Kumari Ghar cũng tầm 4 giờ chiều. Cũng lẳng lặng xếp vào hàng dăm chục người rồng rắn đi vào bên trong. Phía bên tường của hoàng cung đoàn người xếp hàng vào đền Taleju kéo dài cả cây số cho đến tận ngoài đường New Road. Tôi ung dung lần bước trong đoàn người địa phương men theo hành lang để vào cái cửa nhỏ thấp, trong khi bên dưới sân thì đám du khách như mọi hôm chen chúc nhau vô vọng ngóng lên cái cửa sổ nổi tiếng nhất Nepal mà không biết rằng hôm nay Kumari bận ban phúc cho mọi người nên không đến bên cửa sổ. Còn cách ba mét tới cái cửa vào thì tôi suýt bị lộ. Lần đầu tiên từ khi sử dụng mánh người câm này. Một người đàn ông to lớn bệ vệ từ trong Kumari Ghar lách người bước qua cửa để ra sân sau khi chiêm bái Kumari. Ông xoay người, nhận ra tôi và kêu lớn mừng rỡ : “Oh, Mr. Phu.” Giọng nói vang vọng của ông làm ai cũng quay lại nhìn. Tôi tỉnh như không giả vờ quay nhìn mấy người phía sau mình rồi quay lại đặt một ngón tay lên môi ra vẻ như bảo ông giữ im lặng (thực ra là ra hiệu cho ông giữ bí mật). Ông ớ người và chợt hiểu, lắc lắc đầu giả vờ như nhìn nhầm người rồi quay người băng qua sân đến cánh bên kia tòa nhà nhìn sang.  Ông cười vui vẻ và vẫy vẫy tay chào trước khi rời đi cùng gia đình. Đó là ông Rajesh Kazi Shrestha người Newar chính gốc, cựu Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp Nepal. Ông hiểu ngay là tôi phải giữ bí mật mà lén vào chiêm bái Kumari. Có vẻ ông rất vui vì tôi đã thực hành nghi thức chiêm bái Kumari vào ngày này (tôi có điện cho ông sau khi rời Kumari Ghar, ông còn ngạc nhiên sao tôi lại biết được bí mật này của dân Kathmandu). Kumari là Nữ thánh Sống duy nhất không chỉ của Nepal mà toàn thế giới. Chiêm bái Nữ thánh sống Taleju vào ngày Navami, đỉnh của các nghi thức chiêm bái thần linh, đấy mới chính là dân Kathmandu sành điệu!    
   Bước vào bên trong Kumari Ghar, tôi hồi hộp di từng bước chân. Đây là nơi mà các nhà vua trước đây và cả Tổng thống hiện nay cũng phải đến hàng năm vào dịp lễ hội Indra Jatra để nhận tika ban phúc của Kumari như là một sự chuẩn thuận từ Nữ thần hộ quốc cho sự cai trị của họ trong một năm.
  
Leo lên hết hai cầu thang bằng gỗ khá dốc để đến tầng thứ ba, tôi thấy Kumari ngồi trên mấy cái gối đỏ dầy giữa căn-phòng-có-ba-khung-cửa-sổ-liên-hoàn. Kumari hiện tại tên là Matina Shakya thuộc họ Thích ca, mới 8 tuổi, lên ngôi từ mùa Dashain 2008. Kumari mặc toàn đỏ, ngồi duỗi dài hai chân ra phía trước, hai bàn chân cũng nhuộm phẩm màu đỏ rực. Cổ cô đeo một dây chuyền bạc to như dây xích với hai tayo (mặt dây chuyền hình thoi- thánh vật Tantric) và một trang sức hình con rắn khảm ngọc đỏ. Kumari mở to đôi mắt vốn rất to kẻ viền đen, đuôi mắt vẽ kéo dài xếch lên màng tang. Trán cô vẽ một vầng đỏ viền vàng hình trăng lưỡi liềm úp ngược. Chính giữa trán gắn một con mắt thứ ba bằng vàng. Tóc cô bới cao, cột túm lên trên với hoa màu đỏ. Lần lượt từng người quỳ xuống trước mặt Kumari cầu khấn rồi vinh dự chạm trán vào hai bàn chân để trần của Nữ thánh Sống. 
Căn phòng với ba cửa sổ liên hoàn này là nơi Kumari ngự để ban phúc cho mọi người

  Được chiêm bái Kumari-Living Goddess, một Royal Kumari của Kathmandu.  
  Thế là mơ ước của tôi đã thành sự thực. Tôi đã được chiêm bái tất cả các Kumari quan trọng của Thung lũng Kathmandu. Từ Cha Bahil, nơi khởi nguồn cho tập tục Kumari cho đến Kumari Patan – cựu Royal Kumari cho đến khi hoàng cung Malla dời sang Kathmandu. Kể cả Bhaktapur, nơi tập tục thờ phượng Kumari bắt đầu trễ nhất (800 năm trước). Trong số các Kumari quan trọng của Cha Bahil, Patan, Bhaktapur, Kathmandu thì diện kiến Kumari của Kathmandu là khó nhất. Đây là Royal Kumari của Nepal hiện nay, người nắm giữ bí mật Tantric của Nepal, sống trong Kumari Ghar dưới sự bảo vệ nghiêm ngặt của Chính Phủ .Tôi có lẽ là người ngoại quốc đầu tiên vào được căn phòng Kumari ngự và đảnh lễ Nữ Thánh Sống.
  Phải mất bảy năm tôi mới thực hiện thành công kế hoạch diện kiến Kumari Kathmandu. Cái giá không phải là quá đắt!     

Hắn dứng bên dưới căn phòng của Kumari - giống hệt một gã Kathmanduist

    Ngày mai sẽ có một cuộc phiêu lưu thú vị khác: nhận tika từ Tổng thống Nepal, xin mời đón xem!



6 tháng 5, 2012

RAMGRAM – BẢO THÁP NGUYÊN THUỶ LƯU GIỮ XÁ-LỢI PHẬT THÍCH-CA

-->
PHẦN 1                    
(Bài này được đăng trên Nguyệt San Giác Ngộ số đặc biệt mừng Phật Đản năm 2012)
GÒ ĐẤT BÊN HỒ NÀY LÀ DI TÍCH CÒN LẠI CỦA BẢO THÁP RAMAGRAMA NỔI TIẾNG HƠN 2500 TRƯỚC
Đã thành thông lệ, mỗi lần về thăm quê hương Đức Phật tôi đều phải ít nhất một lần ghé qua Ramgram. Đấy là nơi lưu giữ Xá Lợi nguyên thủy (Sàrìradhàtu) của Đức Phật Thích-ca và hầu như chưa hề bị xâm phạm cho đến ngày nay. Điều đó cũng có nghĩa là: đấy là nơi lưu giữ số lượng nhiều nhất Xá Lợi Phật Thích-ca trên thế giới cho đến ngày nay.
Ramgram, gọi đầy đủ phải là Ramagrama, là một địa danh quan trọng và nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo cũng như lịch sử họ Sakya (Thích-ca).







Lời dẫn của tác giả: Tôi lên đường đến Lumbini để làm công quả và công tác thiện nguyện một cách bất ngờ từ nhiều năm trước. Vùng đất Phật đã làm tôi yêu mến và gắn bó như  quê hương  của mình. Mà cũng đúng thôi, vì mọi Phật tử đều tự xem mình là con Phật và như thế quê hương của Đức Phật Thích-ca cũng chính là quê hương của chúng ta. Sáu năm trước tôi có viết một bài về Quê Phật (bài “Dòng tộc và quê hương Đức Phật” đã đăng trên Nguyệt San Giác Ngộ năm 2006). Thời điểm ấy, Vương quốc Nepal đang ở vào giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc nội chiến kéo dài hơn 10 năm với tổn thất sinh mạng lên đến hàng vạn người. Lumbini Zone là vùng giáp biên giới với Ấn Độ, du kích Maoist hoạt động mạnh mẽ và nghiêm cấm di chuyển trong vùng họ quản lý– nếu gặp phải quân du kích thì chỉ còn cách quay xe về không được đi tiếp. Quân đội của chính phủ hoàng gia cũng kiểm soát gắt gao sự di chuyển trong vùng, cứ cách vài cây số là có một trạm kiểm soát phong toả đường đi bằng chướng ngại vật kiên cố , mọi người - trừ lái xe - phải xuống xe kiểm tra người và hành lý. Chính vì thế, những cuộc khảo sát của tôi lúc bấy giờ chỉ mang tính cưỡi ngựa xem hoa (đi theo đoàn, nhiều địa điểm không tiếp cận được chỉ đứng nhìn từ xa, và không được phép chụp hình). Tôi rất tiếc cho bài viết không hoàn hảo ấy và luôn cầu nguyện Chư Phật và Bồ Tát gia hộ để tôi có thể bổ sung cho bài viết ấy hoàn hảo hơn. Cuối cùng, chiến tranh cũng chấm dứt vào năm 2007, Nepal xoá bỏ vương quyền để trở thành một nước cộng hòa. Thế nhưng mãi đến bốn năm sau đó tôi mới có thể thực hiện được nguyện ước của mình: “Về Quê”. Trong những năm đó, cơ duyên đã giúp tôi tiếp cận thêm nhiều nguồn tư liệu phong phú tại Kathmandu về cổ sử Nepal và Ấn độ. Loạt bài phóng sự “Về quê” này nhân dịp Phật Đản sẽ khắc hoạ chi tiết quê hương của Đức Phật Thích-ca (nhất là quê mẹ của Ngài tại Devdaha vốn chưa được biết đến nhiều như quê cha - Kapilavastu) bằng tư liệu thực địa của chính tác giả và nguồn sử liệu chưa được biết đến rộng rãi từ Nepal ; cũng như có tham khảo Phật quốc ký của Pháp Hiển, Tây du ký của Huyền Trang, tư liệu khảo cổ của các học giả Cambridge và Báo cáo khai quật Ramgram năm 2005 của Sukra Sagar Shrestha – Trưởng Ban khảo cổ thuộc Cục Khảo cổ Nepal. Vì các bài viết này là những phóng sự không phải bài khảo cứu về khảo cổ, tác giả xin cáo lỗi vì không thể chuyển tải chi tiết những thuật ngữ chuyên ngành của khoa học khảo cổ.
Mong rằng những thu nhặt nhỏ nhoi này sẽ giúp độc giả cảm thấy gần gũi hơn với Đức Từ phụ của chúng ta.    
******


I – NGUỒN GỐC RAMAGRAMA
Đã thành thông lệ, mỗi lần về thăm quê hương Đức Phật tôi đều phải ít nhất một lần ghé qua Ramgram. Đấy là nơi lưu giữ Xá Lợi nguyên thủy (Sàrìradhàtu) của Đức Phật Thích-ca và hầu như chưa hề bị xâm phạm cho đến ngày nay. Điều đó cũng có nghĩa là: đấy là nơi lưu giữ số lượng nhiều nhất Xá Lợi Phật Thích-ca trên thế giới cho đến ngày nay.
Ramgram, gọi đầy đủ phải là Ramagrama, là một địa danh quan trọng và nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo cũng như lịch sử họ Sakya (Thích-ca). Xin được nhắc lại một chút lịch sử của vương quốc này gắn liền với lịch sử gia tộc Sakya.
  Toàn bộ Tư liệu Phật giáo từ Lalitvistara viết tay ở Thung Lũng Kathmandu hoặc Đại sử Mahavamsa ở Sri Lanka, hoặc Phật Sử tiếng Tây tạng, bao gồm cả Dhammapada (Kinh Pháp Cú), Jatakas (Chuyện Tiền Thân Phật), Putakas và Tripitakas  đều kể cùng một câu chuyện với tên các nhân vật phát âm hơi khác do giọng địa phương:

     …Vua Okkaka của Kosala mất vợ Hasta, ngưới có cùng với ông 4 con trai 5 con gái. Nhà vua tấn phong một vương phi xinh đẹp, trẻ tuổi tên Amba lên làm hoàng hậu. Bà này sinh cho ông một đứa con trai tên Jayantu. Nhà vua già vì quá yêu bà vợ trẻ và đứa con trai mới đã không từ chối được yêu cầu cùa bà này tấn phong cho Jayantu làm người kế vị ngai vàng.
    Sau phút bốc đồng, lòng tràn đầy hối hận, Okaka gọi các con của bà vợ trước đến và bảo:
  “Này các con, ta đã cho đi một cách thiếu suy nghĩ vương quốc thực sự thuộc về các con. Em trai Jayantu của các con sẽ kế vị ta. Hãy lấy bất cứ của cải nào, ngoại trừ 5 món biểu tượng cho vương quyền [kiếm báu, giày báu, lọng hoàng gia, vương miện, phất trần của vua – chú thích của NP]và mang theo số người các con cần. Hãy đi đến một nơi nào đó nơi các con có thể dựng nên chốn nương thân.”
    Okkaka khóc, hôn các con và tiễn chúng ra đi với một trái tim tan nát.
    Những hoàng tử và công chúa trẻ đi về phía Bắc hướng có những dãy núi tuyết hùng vĩ của Himalaya. Sau một chặng đường dài, họ đến một khu rừng Sal [sa-la theo phiên âm Hán Việt] nơi  Rishi (ẨN SĨ) Kapila đang thiền toạ bên bờ một con sông. Rishi Kapila chính là một tiền kiếp của Phật Thích-ca trong tương lai.
    Hiểu rõ tình cảnh của họ và tiên đoán được tương lai của chúng, Rishi Kapila bảo họ dừng lại đấy và xây dựng quốc gia của riêng họ. Thành đô đấy chính là Kapilavastu [Ca-Tì-La-Vệ] sau này, được đặt tên theo vị ẩn sĩ Kapila để vinh danh ông.
   Vì là dòng dõi Okkaka, các hoàng tử và công chúa của Kosala không thể kết hôn với hoàng gia các nước thấp kém hơn chung quanh, họ phải kết hôn với anh chị em ruột của mình [đây là tập tục của Ấn Độ cổ đại] để bảo toàn dòng máu tinh khiết của gia tộc. Người chị cả được tấn phong làm Mẫu hậu, còn lại 4 anh em trai cưới chính 4 cô em gái. Mỗi cặp hạ sinh 8 con trai và 8 con gái. Đấy là khởi đầu cho vương tộc Sakya [ tên này cũng có thể đến từ tên cây Sal, mà những rừng Sal rậm rạp chính là đặc điểm của vương quốc mới).
Một thời gian sau, người chị cả mắc bệnh phong. Cô từ bỏ hoàng gia và một mình đi đến một khu vực hoang vu ở phía Đông Bắc Kapilavastu dự định sống nốt những ngày còn lại của đời mình trong cô độc. Tình cờ, khu rừng ấy cũng chính là nơi trú ẩn của Rama, quốc vương Banaras [Ba-La-Nại], người cũng bị bệnh phong và từ bỏ vương quốc của mình để sống ẩn dật. Đồng bệnh tương lân, Rama hướng dẫn cô toạ thiền dưới một gốc cây cổ thụ KOLAN kỳ lạ mà ông nhận thấy nó có năng lực chữa khỏi bệnh phong cho ông. Sau khi cả hai đã lành bệnh, họ thành hôn và lập nên vương quốc mới tên là KOLYA [đặt tên theo cây thần KOLAN] với thủ đô là DEVADAHA [Thành phố thần linh] và một trung tâm thờ phượng được đặt tên theo người sáng lập: RAMAGRAMA – Thành Phố Rama. Từ đấy hai Gia tộc Sakya ở Kapilavastu và Kolya ở Devadaha truyền đời kết thông gia với nhau.
CÂY THẦN KOLAN TRÊN QUÊ MẸ ĐỨC PHẬT THICH-CA NGÀY NAY

Ta có thể thấy rằng, đến thời Đức Phật Thích-ca, Kapilavastu chính là quê cha và Devadaha [cộng với Ramagrama] chính là quê mẹ của Ngài. Hai thủ đô cách nhau gần 100km mà điểm giữa của hai vương quốc chính là Khu Vườn Lumbini nổi tiếng.

II – SỰ PHÂN CHIA XÁ-LỢI CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH-CA SAU KHI NGÀI NHẬP NIẾT BÀN
Xin trích dẫn nơi đây chương PAÑCAVĪSATIMO GOTAMABUDDHAVAṂSO [LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT GOTAMA] từ BUDDHAVAMSA [Phật sử] trong Tạng Kinh thuộc Tiểu Bộ, nguồn Pali Tạng:
  Mahāgotamo jinavaro  - kusināramhi nibbuto
dhātuvitthārikaṃ āsi  - tesu tesu padesato.
[Đấng Chiến Thắng cao quý Gotama vĩ đại đã Niết Bàn tại Kusinārā. Đã có sự phân tán xá-lợi từ xứ sở ấy đến khắp các nơi.]
 Eko ajātasattussa  - eko vesāliyā pure
eko kapilavatthusmiṃ -   - eko ca allakappake.
[Một phần thuộc về (đức vua) Ajātasattu. Một phần ở thành Vesālī. Một phần ở thành Kapilavatthu. Và một phần dành cho người dân ở Allakappa.]
 Eko ca rāmagāmamhi  - eko ca veṭṭhadīpake
eko pāveyyake malle  - eko ca kosinārake.
[Và một phần ở Rāmagāma. Và một phần dành cho người dân ở Veṭṭhadīpa. Một phần dành cho người dân Malla ở Pāvā . Và một phần dành cho người dân ở Kusinārā.]
 Tumbhassa thūpaṃ kāresi  - brāhmaṇo doṇasavhayo
aṅgārathūpaṃ kāresuṃ  - moriyā tuṭṭhamānasā.
[Bà-la-môn tên Doṇa đã xây dựng ngôi bảo tháp cho bình đựng (xá-lợi). Những người Moriya với tâm hoan hỷ đã xây dựng ngôi bảo tháp thờ tro.]
 Aṭṭha sārīrikā thūpā  - navamo tumbhacetiyo
aṅgārathūpo dasamo  - tadāyeva patiṭṭhito.
[Chính vào thời ấy, có tám ngôi bảo tháp (thờ) xá-lợi, ngôi bảo tháp của bình đựng (xá-lợi) là thứ chín, ngôi bảo tháp thờ tro là thứ mười đã được thiết lập.]
           Chúng ta có thể thấy rằng: nguyên thuỷ có 8 bảo tháp thờ xá-lợi Phật Thích-ca, một bảo tháp thờ tro và một bảo tháp thờ chiếc bình dùng để phân chia xá-lợi.
        Gia tộc Kolya bên ngoại của Đức Phật Thích-ca đã xây một bảo tháp tại Ramagrama để thờ phượng 1/8 phần xá-lợi quý giá được chia cho họ. Tuy nhiên, thế sự thăng trầm, không lâu sau đó vương quốc Kolya bị xoá sổ, vương tộc Kolya tản mác khắp bốn phương trời, một phần di cư lên Thung lũng Kathmandu và sau này trở thành họ Shrestha [nghĩa là Ưu tú]. Kinh thành Devadaha cũng như Ramagrama trở thành hoang phế giống như Kapilavastu. Duy có một điểm đặc biệt là tuy vương quốc Kolya đã bị tàn lụi nhưng Bảo tháp Ramagrama vẫn được sùng kính, trở thành một trung tâm hành hương và nổi tiếng khắp cả Ấn Độ đến mức được chạm khắc lên một phù điêu ở bảo tháp Sanchi vùng trung Ấn Độ vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên.
      Khi Đại Đế Asoka [A-Dục] cho xây dựng 84,000 bảo tháp mới để hoằng pháp, Ngài lần lượt khai quật các bảo tháp nguyên thuỷ thờ xá-lợi Phật Thích-ca để thu thập xá-lợi nhằm chia cho các bảo tháp mới.
    Sau khi đã thu thập thành công xá-lợi từ 7 bảo tháp, cuối cùng Asoka với sự tháp tùng của Thầy ông là Ngài Upagupta đã tìm đến Ramagrama vào thời điểm hơn hai trăm năm trước khi Jesus Christ ra đời. Tất cả các nguồn sử liệu bao gồm cả hồi ký của Ngài Pháp Hiển và Huyền Trang đều ghi lại câu chuyện diễn ra sau đây khi Asoka đến bảo tháp Ramagrama:
       Ngày xưa sau khi đức Như Lai nhập diệt, Vua của nước nầy [Kolya] đến phân chia Xá Lợi mang về nước của mình rồi ra sức tôn tạo kiến thiết nên. Đây là nơi rất linh thiêng, có ánh sáng phát ra từ Tháp. Bên cạnh Bảo Tháp có một ao nước trong. Một con rồng [Naga] ngụ tại đây để bảo vệ và thờ phượng bảo tháp. Vua Asoka đã kiến tạo nên các Bảo Tháp mới. Bảy nước đã xây dựng xong rồi bắt đầu đến nước nầy muốn thu thập xá-lợi từ Bảo Tháp, nhưng con rồng ở hồ nầy đã biến thành một Bà La Môn đứng cúi đầu trước con voi của vua Asoka mà nói: Đại Vương có tấm thịnh tình hoằng dương Phật Pháp là một ruộng phước rất lớn, xin thỉnh đại vương giáng lâm nơi tệ xá của tôi. Vua hỏi: Nhà của ngươi cách đây xa gần? Bà La Môn đáp: Tôi là vua rồng[Nagaraja, về chuyện phiên dịch Naga =rồng và Nagaraja = Long vương cũng như Naga là ai – người hay rắn, rồng xin được có một bài viết riêng] của hồ nầy, thấy đại vương muốn xây dựng nơi phước đức nên đến thỉnh mời. Vua thọ nhận sự thỉnh mời mà đi vào Long cung, ngồi chờ một hồi lâu, rồng tiến đến nói: Tôi thọ ác nghiệp nên làm thân rồng nầy. Nay muốn cúng dường xá lợi để được tiêu tội, nên mời vua đến đây để mà đảnh lễ. Vua Asoka nghe thấy xong liền vui vẻ mà nói: Mọi sự cúng dường không phải chỉ của người trong nhân gian. Vua Asoka tự nghĩ chính mình cúng dường xá-lợi cũng không thể chu đáo và trang nghiêm hơn vua rồng nên lui về mà chẳng khai phát và sau khi đi khỏi ao rồi, chỗ nầy vẫn còn nguyên như cũ…
  Như thế tất cả các nguồn sử liệu đều thống nhất ở một điểm: bảo tháp Ramagrama thờ phượng xá-lợi nguyên thuỷ của Đức Phật Thích-ca đã không bị khai quật bởi Đại đế Asoka.

   Tuy nhiên, liệu Ramagrama có còn lưu giữ toàn vẹn phần xá-lợi nguyên thuỷ của Đức Phật Thích-ca sau thời vị hoàng đế vĩ đại nhất lịch sử Ấn Độ? Phần 2 của bài này về Các ghi nhận dọc dài lịch sử và cuộc khảo cổ mới nhất tại Nepal sẽ cho chúng ta biết điều đó.
        (Còn tiếp)
                                                                                Nguyễn Phú
                                                                Mùa Phật Đản thứ 2556 - Tháng 05/2012

24 tháng 2, 2012

SAMYAK BUDDHA - HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT

  Hôm nay mùng ba tháng hai Âm lịch, có một sự kiện quan trọng của người Newar 4 năm mới xảy ra một lần: SAMYAK BUDDHA (dịch nôm là HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT) .
 Mình đi lễ Phật và chụp hình lễ hội này từ 3 giờ chiều tới giờ (23h30) đừ quá. Pót tạm mấy tấm hình trước , mai chụp tiếp pót sau...








30 tháng 12, 2011

DUYÊN KỲ NGỘ - 4

-->
DUYÊN KỲ NGỘ 4
CHIÊM BÁI XÁ LỢI PHẬT NGUYÊN THỦY

Xá lợi Phật Nguyên thủy trưng bày tại Indian Museum - Kolkata
                               Là một Phật tử ai cũng mong được ít nhất một lần trong đời chiêm bái xá lợi của vị Từ Phụ. 



 Lần đầu tiên mình được chiêm bái xá lợi Phật là vào dịp Tết Nguyên đán 1994 trong một ngôi chùa nhỏ ở Bình Thạnh, Saigon. Thầy trụ trì đi hành hương ở Ấn Độ mang về ba hạt xá lợi Phật. Tin loan truyền trong các Phật tử. Vào ngày đã định, từ sáng sớm hàng trăm người đã sắp hàng trong sân chùa để được chiêm bái xá lợi. Mãi đến 8 giờ sáng mình mới đến được bàn thờ Phật. Ba hạt xá lợi nhỏ như hạt gạo đặt trên vải nhung đỏ bên trong một hộp kính. Cả ba đều có bề ngoài sáng bóng, hai hạt màu trắng sữa còn một màu xanh lá chuối non.
  Mười năm sau, khi ở Phnom Penh lại được chị Chủ tịch Hội Phụ Nữ Cambodia đưa đi chiêm bái xá lợi Phật của hoàng gia Khmer. Lần này mình được xem chừng chục viên xá lợi to chừng đầu ngón tay, có đủ các màu và cũng có bề ngoài láng bóng, trông giống ngọc hơn.
  Hôm dự lễ cầu nguyện ở Bodhgaya, các nhà sư Thái lan cung kính bưng 9 bảo tháp bọc vàng đựng xá lợi Phật. Mình có tiếp cận và nhận ra những xá lợi này cũng giống như xá lợi mình đã được chiêm bái trước đây. Nghĩa là trông giống ngọc quá.


Xá lợi Phật được trưng bày trong ngày cầu nguyện tại Bodhgaya

  Điều hấp dẫn lớn nhất trong chương trình hành hương của Hội Nghị Phật giáo Toàn cầu 2011 với mình là chiêm bái xá lợi Phật ở Sarnath. Thế nhưng, khi đến Sarnath thì do khoán trắng cho một công ty du lịch địa phương, những người hăm hở đưa bạn đến các cửa hàng để mua đồ hơn là  đưa bạn đi thăm các cổ tích tàn lụi hàng ngàn năm trước, nên các tiếp viên của công ty du lịch nọ lờ đi  chẳng thấy ai đề cập đến chuyện chiêm bái xá lợi Phật…
  Trước đó, vào hôm thứ ba ở Delhi, các Thầy và vợ chồng anh Vũ có rủ đi chiêm bái xá lợi Phật ở Bảo tàng quốc gia Ấn Độ. Tiếc là hôm đó mình phải đi gia hạn hộ chiếu ở Đại sứ quán nên không đi theo cùng được. Vả lại chương trình nghiên cứu của mình sẽ quay lại Delhi trước khi về Nepal nên tự nhủ sẽ thăm viếng bảo tàng này sau vậy.
  Mình đến Kolkata để lo công việc, cố gắng thu vén trong một ngày cho xong mọi thứ và rứt ra được một ngày trọn vẹn cho  Indian Museum – Bảo tàng Ấn Độ. Đây là bảo tàng đầu tiên của châu Á, thành lập vào năm 1875. Bảo tàng này là lý do chính yếu mình phải đến Kolkata ngoại trừ công việc làm ăn. Đây là tổng hành dinh của Cục khảo cổ Ấn Độ của người Anh và là kho chứa tất cả mọi thứ khai quật được trong tất cả các cuộc khảo cổ do người Anh thực hiện trên đất Ấn. Tại đây, các mẫu vật được phân loại và Toàn quyền Anh sẽ quyết định cái nào gửi về Anh quốc cái nào để lại Ấn Độ. Dĩ nhiên, phần lớn những mẫu vật có giá trị nhất, hiếm quý nhất, tinh túy nhất, hoàn hảo nhất đã bị đưa về Anh, nhưng số lượng lớn còn tồn tại tại các kho chứa của bảo tàng thì không một bảo tàng nào khác sánh nổi. Sau này, khi Delhi trở thành thủ đô của Ấn Độ, người ta đã xây dựng một Bảo tàng quốc gia hoành tráng, hiện đại ở đấy và chuyển một số mẫu vật quý từ Kolkata về trưng bày. Tuy nhiên, Bảo tàng Ấn Độ ở Kolkata vẫn là bảo tàng số một ở Ấn Độ xét về quy mô và tính chuyên nghiệp, và những nghiên cứu của các học giả ở đây luôn luôn đóng dấu đẳng cấp quốc tế. Đó cũng là một trong những nguyên nhân người ta coi Kolkata như là “Brain of India” – bộ não của Ấn Độ.
  Lý do cuốn hút mình đến Indian Museum thực ra rất đơn giản. Ở đấy có một bộ sưu tập vô giá về Asoka và Ấn Độ cổ đại. Ngay lối vào chính của bảo tàng, người ta đã đặt các pho tượng được xác định thuộc về thời đại Asoka rồi. Điều thú vị là Bảo tàng này cho phép chụp hình với ticket là 50 rupees – kể cả 500 rupees thì mình cũng chịu ;-D… Vì điều bực mình duy nhất trong chuyến đi này của mình là một số bảo tàng thuộc hệ thống Cục Khảo Cổ không cho phép chụp hình, rút kinh nghiệm, lần sau mình sẽ tìm cho ra cách để chụp cho được he he...
  Mình hăm hở chụp tất tần tật mọi thứ trong bảo tàng từ trong các phòng trưng bày cho đến các hành lang mênh mông đầy ắp các mẫu vật thu thập từ khắp nơi trên Ấn Độ, kể cả một số mẫu vật tuyệt đẹp từ Borobodur của Indonesia, Angkor Wat của Cambodia.
  Mải mê trôi theo các phòng trưng bày, mình chụp gần hết cái thẻ 32GB, còn pin thì nhấp nháy 2%. Mình bước vào một phòng trưng bày nhỏ ở một góc sân. Vừa nhìn vào vật bày trong tủ kính một luồng điện chạy dọc sống lưng làm mình rợn người. Chiếc bình origin đựng xá lợi Phật của họ Thích-ca khai quật được vào năm 1895 ở Piprahwa, bang Bihar. Chưa bao giờ mình tưởng tượng được rằng chiếc bình quý giá và nổi tiếng kia lại nằm một cách lặng lẽ ở bảo tàng này.  Trông thấy hàng chữ Brahmi trên nắp bình mà mình vẫn chưa tin, cứ hỏi đi hỏi lại anh chàng bảo vệ trong phòng rằng đấy có phải là chiếc bình origin hay chỉ là bản sao. Khi nhận được sự xác nhận, mình vội vàng bỏ giày, camera qua một bên rồi lễ bái chiếc bình một cách thành kính. Lễ xong mình chụp hình cái bình thì hỡi ôi, hết pin. Trong sự kích thích và thất vọng cao độ cùng lúc suýt chút nữa mình bỏ lỡ một cơ duyên. May mà anh bảo vệ kéo tay mình chỉ vào một phòng kính ở giữa phòng. Bảo tàng đã làm lại mô hình thu nhỏ Bảo tháp Bharut. Và trong một chiếc bình replica có cắt mở một góc để người xem nhìn được vào bên trong đang ngự hai mảnh xá lợi Phật trên bông trắng. Hai mảnh xá lợi lớn bằng cỡ móng tay, không bóng loáng, không có màu sắc rực rỡ, chỉ một màu nâu nhạt giản dị và có nhiều lỗ nhỏ trông giống như cấu tạo xương. Đây chính là xá lợi thật không hề có chút nghi vấn! Hai mảnh xá lợi này được chính các nhà khảo cổ Anh quốc thu thập được khi khai quật bảo tháp Piprahwa, quan trọng hơn, nó thuộc về 1/8 xá lợi Phật nguyên thủy chia cho vương tộc Sakya. Mình lễ bái xá lợi thành kính không biết bao nhiêu lạy. Khách tham quan ngạc nhiên thấy một anh chàng ngoại quốc lạy như tế sao cái hộp kính nên tò mò dừng lại xem thử. Khi phát hiện ra đó là xá lợi Phật thì hầu hết kính cẩn chiêm bái theo kiểu Hindu, một số ít thì bắt chước mình quỳ lạy. Có lẽ đó là lần đầu tiên căn phòng trưng bày im lìm này trở nên nhộn nhịp. 

Bình đựng xá lợi Phật nguyên thủy nổi tiếng khai quật từ Piprahwa, trên nắp có khắc dòng chữ Brahmi: "Phần xá lợi này thuộc về họ Thích-ca". Hiện đang được trưng bày tại Indian Museum - Kolkata

   Hên cho mình, có mang một cục pin dự trữ cất trong túi xách gửi ở cổng. Thay pin và quay lại chụp được một lô hình. Một bất ngờ thú vị.
   Sau bốn tuần ngang dọc đất Ấn, mình quay lại Delhi để kết thúc chuyến khảo cứu. Dĩ nhiên là có một ngày dành cho Bảo Tàng Quốc Gia Ấn Độ rồi. Cũng giống như ở Indian Museum, mình chụp tuốt tuồn tuột mọi thứ ngay từ cổng vào. Biết rằng ở đây có xá lợi Phật, mình hồi hộp vừa muốn chạy ngay đến căn phòng ấy, vừa cố kìm nén cảm xúc để cố gắng chụp hình các mẫu vật tuyệt đẹp trước. Hai tiếng sau, trong khi đang mải mê chụp một pho tượng apsara tuyệt đẹp mang về từ Khajuraho, một phụ nữ tiếp cận mình giọng rưng rưng xúc động. “Can you take for me some photos?” “Why not?” mình cười, ra dấu cho bà đứng bên cạnh pho tượng. “No, no, not this.” Bà chỉ tay về gian phòng kế cận “There is relics of Buddha.” Ôi chao. Thế là mình đi như chạy theo bà ta.
  Đó là một căn phòng rộng rãi trưng bày các mẫu vật Phật giáo cổ đại. Cuối phòng là một lồng kiếng cao chạm trần bao bọc lấy một bảo tháp bằng vàng đặt trên bệ cao. Bảo tháp tạo hình kiểu Thái Lan với mái nhọn vút lên, trên đỉnh gắn một viên kim cương. Bên trong bảo tháp là một bệ tròn nhiều tầng, tầng đáy có đường kính chừng 20cm. Lần lượt các xá lợi của Đức Phật Thích-ca được đặt trên các tầng, lớn bên dưới, nhỏ bên trên. Có khoảng 20 mảnh xá lợi Phật, mảnh lớn nhất dài chừng 6-7cm, nhỏ nhất cũng 2-3cm. Tất cả đều có màu nâu nhạt giống như xá lợi trưng bày ở Indian Museum-Kolkata. Thật ra đây chính là phần xá lợi trước kia thuộc về Indian Museum. Chính phủ Ấn đã xem đây như quốc bảo nên cho mang về đặt trong bảo tàng quốc gia. Hoàng gia Thái đã tặng bảo tháp bằng vàng để thờ phượng xá lợi Phật cho bảo tàng vào năm 1997.

Xá Lợi Phật Nguyên Thủy trong Bảo Tàng Quốc Gia Ấn Độ

Gia đình Phật tử Malaysia Bee Leng Choo hoan hỷ chụp hình trước tháp xá lợi

  Trong lồng kính phía trước bên dưới bảo tháp còn trưng bày hai chiếc bình đựng xá lợi. Chiếc bên phải chỉ là bản sao. Chiếc bên trái có dấu vết bị vỡ chính là chiếc bình xá lợi thứ hai khai quật được cùng chỗ Piprahwa với chiếc bình ở bảo tàng Kolkata. Tuy nhiên chiếc bình này kém quan trọng hơn vì không có khắc hàng chữ nào.  

Bình đựng xá lợi Phật nguyên thủy

  Mình xúc động vô ngần, trông thấy chị Bee Leng Choo rưng rưng nước mắt hạnh phúc đứng bên cạnh tháp xá lợi suýt chút nữa cũng không cầm được nước mắt. Gia đình người Malaysia này là những Phật tử nhiệt thành. Đến Ấn Độ chỉ để chiêm bái xá lợi Phật. Nhóc con chị sáng nay táy máy thế nào làm hỏng mất chiếc máy ảnh.Mình chụp hình cho gia đình chị và hứa làm theo yêu cầu của chị sẽ gửi hình qua meo (mình đã gửi hình gia đình chị và cả một bộ ảnh chụp xá lợi Phật cho chị khi vừa về tới Nepal, chị cảm ơn quá xá và cho biết đã khoe với mọi người trong cộng đồng Phật tử ở Kuala Lumpur và pót lên facebook). Thấy có đông người quá, mình quay đi chụp nốt các gian phòng khác. Một lúc sau trở lại nơi ấy khi vắng người, mình liền thực hành nghi thức bái lạy xá lợi và kinh hành vòng quanh tháp. Ông cảnh sát trực trong phòng rất hay. Ông đến đứng gần đó và không để ai làm phiền việc chiêm bái và cầu nguyện của mình (chuyện chiêm bái và cầu nguyện các thánh tích trong các bảo tàng hay đền miếu là bình thường ở Ấn Độ và Nepal. Chuyện này mà xảy ra ở Bảo tàng lịch sử TPHCM chắc thiên hạ bu tới coi, rồi bảo vệ bốc mình chở đi nhà thương Biên Hòa quá… he he)…
   Chuyến đi nghiên cứu của mình trên đất Ấn vậy là thành công mỹ mãn đến phút cuối. Mình được nạp đầy năng lượng để vững bước thực hiện những nghiên cứu của mình. Bao nhiêu duyên kỳ ngộ cùng đến trong một chuyến đi vượt quá tất cả những mong ước của mình. Hạnh phúc đến bất ngờ từ những phút giây nhỏ nhặt, chỉ cần ta chú tâm lắng nghe, trông thấy và đón nhận với một tấm lòng rộng mở. 
   
                    Ngày cuối cùng của năm 2011
  Chúc tất cả mọi người một năm mới an lạc và tràn đầy hạnh phúc!

29 tháng 12, 2011

DUYÊN KỲ NGỘ - 3

-->
DUYÊN KỲ NGỘ 3
BÍ KÍP MẬT TÔNG VÀ BẢN SAO BÌNH ĐỰNG XÁ LỢI PHẬT


   Chương trình hành hương của GBC mang chúng tôi đến Varanasi sau ngày  đọc tụng kinh điển ở Bodhgaya. Lama Dorje ở lại Bodhagaya để thực hành nghi thức sám hối – lạy Tháp Đại Giác và cội Bồ đề suốt ngày ròng rã trong năm tháng tới. Ai đã từng biết nghi thức lễ lạy của Mật tông Tây tạng mới hiểu rằng – xét về phương diện thể xác vật lý -  đó là một cuộc huấn luyện thể lực nghiêm khắc nhất là với người đã lớn tuổi như ông. Ông choàng vào cổ mình một dãi lụa trắng theo phong tục chia tay của Tibet và dặn đi dặn lại mình phải đến Spiti. Khỏi cần phải suy nghĩ, đó sẽ là điểm đến trong cuộc hành trình cầu đạo của mình trong năm 2012. He he.

Với Nhà sư Kyrgyzstan Alexey ở Varanasi
  
   Bạn đồng hành lần này của mình trên đường đến Varanasi là một nhà sư khoảng trên dưới 30 tuổi người Kyrgyzstan – Alexey . Anh này thụ giáo và theo phái Liên Hoa của Nhật Bản của Đại sư nổi tiếng Terasawa.
-->

Junsei Terasawa he is a wandering monk of the Order
Nippodzan Myohoji. He built the first Buddhist stupa in Europe (Milton
Keynes
, England) and a Buddhist stupa in London. Practice in Russia,
Ukraine, Kyrgyzstan, Kazakhstan, China and India. He was the leader of
the anti-nuclear movement for a united Europe in the seventies. He
organized a march of Mothers Compassion  from Moscow to Chechnya in
order to end the Caucasian War in 1995. He organized a peacekeeping
mission in Iraq during both wars. He organized a large peace march
across Eurasia from Yasnaya Polyana (Tolstoy's estate) to Lumbini in
1998. He organized the Pakistan-India peace march prayer in 2002.


   Từ Bodhgaya về, trước khi vô Varanasi, GBC mang cả đoàn thăm viếng Sarnath. Mình hưởng thêm một cơ duyên với Biểu Tượng của nước Ấn Độ hiện đại: tượng sư tử trên đỉnh cột đá Asoka ở Sarnath (chuyện này và chuyện ở Varanasi sẽ kể trong Dọc Đường Gió Bụi và Theo Dấu Asoka, mời bạn đọc đón xem…. He he…) Tối đó, ở Varanasi, GBC tổ chức cho đoàn một bữa ăn tối và xem ca múa ở một biệt điện cũ của một Maharaja .
   Đêm ấy, nằm trò chuyện cả đêm với Alexey – một anh chàng uyên bác (ý quên nhà sư)… Mình nói dự định của mình sẽ thực hiện một chuyến khảo sát để thấy tận mắt, sờ tận tay, cảm nhận được không gian những địa điểm có liên quan đến Asoka.
  “So, you have to go South.” Alexey nói.
  Go South, đó cũng là câu nói kỳ lạ của Lama Dorje. Mình hỏi dấn tới. Alexey xổ luôn một tràng… Orissa, Sanchi. Orissa thì nằm trong kế hoạch từ đầu của mình rồi. Đó là nơi diễn ra trận Kalinga nổi tiếng, nơi Asoka đã buông dao đồ tể thành Phật. Huống chi, ngay trong ngày khai mạc GBC, cơ duyên dưa đến cho mình gặp ông Patel Giám đốc Bảo tàng Orissa, người hứa sẽ giúp mình nghiên cứu ở đấy. Còn Sanchi, thì mình có nghe nói đến nhưng thú thật là nằm ngoài kế hoạch lần này.
  Sáng hôm sau, chia tay Alexey và tất cả những người bạn mới quen trong GBC mình chuyển đến một Guest House ngay bên bờ sông Hằng còn đoàn GBC thì trở về Delhi và giải tán. Từ gợi ý của Alexey, mình tra cứu thêm thông tin và quyết định mở rộng chuyến đi – thêm vào Sanchi sau Orissa.
   Sau 4 ngày ở Kolkata, mình tiêu thêm 4 ngày ở Orissa (chưa đủ, đáng ra phải là 10 ngày nhưng vé máy bay đã đặt cho cả những chặng sắp tới rồi nên không thể hoãn lại được he he). Chuyến đi từ Orissa tới Sanchi quả thật là cực nhất trong cả hành trình. Mất 15 tiếng đồng hồ cho chỉ 600km chỉ vì không có tuyến bay thẳng từ Orissa tới Bhopal, thủ phủ của Madya Pradesh. Rồi phải đến trưa hôm sau mình mới đến được Sanchi, một thị trấn nhỏ nằm cách Bhopal 60km.
  Bảo tháp Sanchi là bảo tháp duy nhất còn tồn tại hầu như nguyên vẹn suốt từ thời Asoka cho tới ngày được tái khám phá trở lại bởi những “học giả” British (thực chất chỉ là những Tomb Raider – kẻ cướp lăng mộ) …. Thôi chuyện buồn này sẽ nói trong Theo Dấu Asoka và Xá Lợi Phật Nguyên Thủy…
  Mình xài gần 100GB và 8 tiếng đồng hồ (hai buổi trong hai ngày) đề cố gắng ghi lại hầu như tất cả những tượng, phù điêu, trang trí trên toàn bộ 4 cổng của bảo tháp Sanchi – đỉnh cao của mỹ thuật Ấn Độ thời hậu Asoka hơn 2000 năm tuổi. Quá xứng đáng cho một chuyến đi.
  Xong buổi nghiên cứu tháp Sanchi thứ nhất, mình vào ngôi chùa Mahabodhi của Sri Lanka ngay cạnh khuôn viên bảo tồn để đảnh lễ Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên (xá lợi của hai Ngài được phát hiện ở Sanchi hiện đang được thờ phượng ngay tại chùa này). Ngay trong điện kề bên cửa ra vào là một quầy sách của Mahabodhi Society. Mình dò từng quyển và ôi chao, chớp được cuốn Ananda. Nếu như có rất nhiều sách về Đức Phật và các đệ tử của Ngài thì đây là cuốn sách đầu tiên và duy nhất viết một cách công phu về người thân cận nhất với Đức Phật trong suốt 25 năm cuối của Ngài trên thế gian (mình đang hăm hở dịch, hy vọng sẽ sớm gửi đến hầu quý bạn đọc quyển sách quý này).

Chùa Mahabodhi ở Sanchi, nơi hàng năm vào chúa nhật cuối cùng của tháng 11 xá lợi của Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên lại được trưng bày để mọi người chiêm bái. Mỗi năm có đến hơn 100,000 người tham dự nghi lễ này.

  Lang thang trong thị trấn đìu hiu buổi chiều ấy, con mọt sách là mình lại lạc bước vào một quán sách nhỏ khác. Thực chất, đây là quầy thông tin của ngành du lịch chuyên bán các bản đồ và chỉ dẫn du lịch. Chắc cũng hiếm khi có khách nên bụi phủ dày đặc khắp nơi. Kệ, mình xông xáo lục tung từng dãy kệ cũ. Phát hiện cái kệ khuất trong góc có hàng dãy sách đóng bìa cứng cẩn thận, mình khẩn khoản yêu cầu anh coi quầy tên Sharma cho phép mình xem thử. Trời, nếu có cách gì mang hết hàng trăm cuốn sách kia về nhà mình sẽ lấy hết. Đó là một collection của Cục khảo Cổ Ấn Độ về tất cả các địa điểm khảo cổ trên đất Ấn. Ham, nhưng lực bất tòng tâm. Vừa rồi ở Kolkata chỉ gửi có 25kg mấy món đồ lưu niệm mình mua dọc đường trị giá 200USD mà tốn hết 400USD cước phí (sau này về tới Nepal đi nhận hàng lại còn bị hải quan hành hạ hết 3 ngày và tốn hết 300USD nữa mới lấy được đồ ra). Ở Orissa, mình phải thức cả đêm chụp hình từng trang hơn 10 cuốn sách quý sưu tầm được ở Bảo Tàng Kolkata  rồi tặng số sách ấy lại cho Cục Khảo Cổ Orissa chỉ vì không thể mang vác hết . Giờ nhìn tủ sách này mà ngẩn ngơ không biết làm sao thu thập được.... chắc năm sau phải trở lại thôi... Mắt mình chợt liếc thấy mấy cuốn sách nằm lẫn lộn trong mớ giấy ở góc phòng.
-          Cái gì vậy? Mình hỏi.
-          À mấy cuốn sách cũ. - Anh coi quầy thờ ơ trả lời.
-          Để tui coi thử...
  Mình lướt qua ... Ô hô... Toàn thư Mật tông... Mắt mình như máy, scan liền cái mục lục tổng quan.... Tất cả những gì thuộc về mật tông Hindu và Phật giáo đều có mặt, từ lịch sử chi tiết đến giải đáp các nghi vấn cho người thực hành Tantric. Mặc dù Mật tông là một pháp môn trực truyền từ Thầy sang trò, nhưng với sự mở rộng về tất cả mọi mặt của Mật tông thì vị ẩn sĩ biên soạn toàn thư này đã trở thành một vị Thầy giúp người thực hành Mật tông hoàn thiện hơn kiến thức của mình. Khỏi cần phải nói, mình lấy ngay bộ bí kíp bị lãng quên này mà không cần trả giá. 
   Đêm ấy ngay trong căn phòng đơn sơ của Hội Mahabodhi ở Sanchi mình ngốn ngấu bộ bí kíp, nếu không vì ngày mai lịch nghiên cứu chật cứng mình sẽ không ngủ. Tất cả những tồn nghi suốt mấy năm qua khi mình tham học tantra đều được giải đáp một cách giản dị đến không ngờ. Đầu óc mình trở nên trong suốt, mọi mây mù tan hết.
   Hôm sau, mình là người đầu tiên mua vé vào tháp Sanchi sau khi chờ gần tiếng đồng hồ trong lạnh giá. Chỉ để chụp hình bảo tháp trong ánh bình minh. Thế rồi đi thắp hương và lạy tất cả các tượng Phật, Bồ tát, kinh hành 9 vòng quanh tất cả các tháp lớn nhỏ... đến hơn 11 giờ mới kết thúc.
    Mình trở lại quầy sách để căn dặn chủ quầy ráng giữ bộ collection cho mình thêm vài tháng mình sẽ trở lại vào năm sau. Sharma trịnh trọng bưng ra một cái bọc hộp nhung đỏ, "Cha tôi tặng anh." Chiếc hộp có một mặt in hình Đức Phật, mặt kia in chữ:  REPLICA OF RELIC CASKET OF LORD BUDDHA – Bản sao bình đựng xá lợi Đức Phật. Chu choa. Bên trong là một bình bằng đá giống hệt chiếc bình nguyên thủy mình được chiêm bái ở Bảo tàng Kolkata. Trên nắp bình cũng khắc dòng chữ Brahmi như bình origin: "Sukiti-bhatinam Sabhaganakinan sa-Puta-dalanam iyam salila-nidhane Budhasa bhagavate Sakiyanam" ( Phần xá lợi Đức Phật này thuộc về họ Thích-ca). Bên trong bình có bốn ngăn chứa bốn bịch nylon nhỏ, mỗi bịch đựng một ít đất đá gắn nhãn: Lumbini-Bodhgaya-Sarnath-Kusinaga. Ôi trời, đấy là đất lấy chính xác từ địa điểm trung tâm của bốn thánh địa Phật giáo. Ngoại trừ Cục Khảo Cổ Ấn Độ thì không ai làm được. Đấy là quà biếu của Cục Khảo Cổ hơn 10 năm trước cho cha anh Sharma này, một Phật tử và là nhân viên kỳ cựu của Cục Khảo Cổ làm việc hơn 20 năm ở Sanchi.  



  Hỏi lý do tại sao cha anh lại tặng món quà quý này cho một người không quen biết như mình Sharma chỉ nói đơn giản, “I don't know. He said this is your Karma”. 
  Một chuyến đi ngoài kế hoạch, một con người chưa biết mặt đã mang đến cho mình hạnh phúc vô bờ bến.

(Mời đọc kỳ tới DUYÊN KỲ NGỘ 4: CHIÊM BÁI XÁ LỢI PHẬT NGUYÊN THỦY)
He he... như món quà cuối năm 2011.

28 tháng 12, 2011

DUYÊN KỲ NGỘ - 2

-->
DUYÊN KỲ NGỘ 2

   ĐẤT THIÊNG


   Từ Delhi, máy bay chở đoàn xuống Varanasi. Ra khỏi sân bay đã là 1 giờ trưa. Các nhân viên của một công ty du lịch địa phương đã chờ sẵn hướng dẫn mọi người lên 10 chiếc coach. Mình lên chiếc thứ tư, chiếm lấy ngay một cửa sổ. Mọi người lục tục kéo lên. Thấy một lama già chừng 60 tuổi lóng nga lóng ngóng mình cười, chắp tay chào và vỗ vỗ vào chiếc ghế trống ngay bên cạnh. Ông cũng cười lại như đã quen biết từ lâu và ngồi bên cạnh mình.
   Chỉ có 200km mà mất đến hơn 6 tiếng  đồng hồ mới đến được Bodhgaya. Suốt cả quãng đường dài, mình ngủ gà ngủ gật , giữa hai cơn buồn ngủ là hỏi chuyện làm quen vị lama bên cạnh. Ông biết tiếng Anh rất kém, hầu hết là nghe mình hỏi rồi cười đôn hậu vì không đủ tiếng Anh trả lời. 7 giờ tối đến Bodhgaya, khi nhận phòng tình cờ thế nào mình lại được sắp chung phòng với ông. Mệt mỏi sau cả ngày di chuyển nên sau khi ăn tối xong là mình ngủ ngay, không chuyện trò gì và vì ông cũng không thể trò chuyện được.
  4 giờ sáng hôm sau, ông đã dậy, vệ sinh, rồi ngồi xếp bằng trên giường tụng kinh bằng tiếng Tibet. Mình cũng ngồi dậy, xếp bằng và lắng nghe lời tụng rì rầm của ông. Không hiểu nhưng cũng cảm thấy bình an vô cùng. Khi kết thúc bài kinh ông đến chỗ mình hai tay nắm lấy tay mình và cười, “Friend, friend.” Mình vội vàng nâng hai tay ông lên chạm trán vào đó, nói “ No, no. Master, master…” và thêm vào tiếng Hindi “Guru, you are my guru.” Ông lắc đầu hiền hậu, “No, friend. No guru, brother.” Mình chẳng hiểu gì cả chỉ nghĩ ông không hiểu tiếng Anh nên gật gật đầu cười. Ông lại nói “Come Gumpa, Spiti. Yes?”  Mình cũng chẳng hiểu gì , lại gật đầu. Ông vui lắm.

                    Với Hon Lama Dorje Sonam Tu viện Trưởng tu viện DHANKAR
    Khi đi ăn sáng, ông dẫn đến một ông già khác để làm phiên dịch. Họ là những đại biểu từ Himachand Pradesh. Lama Dorje hiện là Viện trưởng Tu viện danh tiếng 1200 năm tuổi Dhankar ở Spiti – vùng giáp biên giới Tibet và được coi là một mẩu nhỏ của Tibet ở Ấn Độ vì những truyền thống văn hóa tôn giáo đặc thù Tibet. Mình nhờ ông phiên dịch nói với Lama Dorje rằng mình xem ông như bậc thầy  và muốn học hỏi Phật pháp với ông. Khi nghe ông phiên dịch nói lại, Lama Dorje lắc đầu quầy quậy. “Brother, brother no Guru.”  làm ông phiên dịch cũng ngạc nhiên. Lama Dorje bảo ông phiên dịch nói với mình rằng  “To find your way, go south, then come to Spiti I will show you your Guru.” – Muốn tìm đường, đi về hướng Nam., sau đó đi đến Spiti tôi sẽ chỉ cho anh bậc thầy của anh… Mình căn vặn ý nghĩa của câu nói này nhưng Lama chỉ cười khó hiểu. Hôm ấy họ tham gia vào đoàn hành hương đi thăm Nalanda và thành Vương xá, còn mình quyết định dành cả ngày cho cội Bồ đề linh thiêng nên chia tay nhau ở đó.
    Sau khi đi theo đoàn rước kinh từ chùa Thái ở Bodhagaya, mình lẳng lặng đi về Tháp Đại giác trước, ngại 1-2 tiếng nữa đòan cầu kinh kéo qua sẽ không có chỗ chen chân. Lễ Phật trong tháp xong, mình bắt đầu kinh hành 9 vòng quanh tháp và cây bồ đề. Hoàn thành kinh hành mình mới từ tốn thả bước ngắm nhìn mọi thứ.
   Đến ngay bên dưới cội bồ đề linh thiêng mình dừng lại hoan hỉ ngắm những chùm lá xanh vươn ra từ thân cây già cỗi. Rất nhiều người , tăng ni có khách hành hương có, Á có Âu có ngồi dọc theo hàng rào chờ từng chiếc lá bồ đề rơi xuống là tranh nhau nhặt lấy.  Mình cũng ước có một chiếc lá làm kỷ niệm nhưng không ham tranh giành, thế là chỉ đứng dưới gốc cây hết ngắm nhìn lại chụp hình.
   “Cốc” bỗng đâu có một vật rơi trúng ngay đầu mình rồi văng xuống bên cạnh chân mình. Nhặt lên…Ôi trời… một mảnh vỏ cây bồ đề hình tam giác dài chừng 6 cm. Mọi người xung quanh ồ lên ghen tỵ. Mình sướng quá thành kính chạm mảnh vỏ bồ đề lên trán rồi cất kỹ ngay vào túi áo ngực.

Vỏ cây bồ đề thiêng


KIM CƯƠNG TÒA một truyền thống do Asoka lập nên đánh dấu chính xác nơi Đức Phật thành đạo

   “Sir, come here. There is best angle.” Một ông Ấn độ mặc đồng phục bảo vệ tiếp cận mình . Ông dẫn mình đến sát hàng rào đá bảo vệ cho cây bồ đề , cho phép mình lòn tay vào bên trong hàng rào đá để chụp hình Kim Cương Tòa bên dưới cây bồ đề. Chụp được mấy tấm hình quý giá xong, mình lễ bái cây bồ đề và tặng cho ông 100 rupee Ấn (2 đô la)  để uống "chai" - trà sữa Ấn độ. Ông cười , kéo mình tới một góc sân , và hí hoái lôi cái túi cá nhân của ông ra. Nâng từ trong túi ra một gói vải vàng ông trân trọng đặt vào tay mình “Give you” Mình hồi hộp mở mảnh vải vàng ra …Trời ơi… một nắm đất  và hơn 50 chếc lá bồ đề còn chưa khô…

Nắm đất thiêng liêng và lá bồ đề

   Hóa ra ông phụ trách việc quét tước gốc bồ đề mỗi sáng, nắm đất này ông gom lại sau khi quét sáng nay cùng với lá bồ đề. Ông thấy tôi không tranh lá rơi, còn được “Bodhi Tree blessing you” – chữ của ông nên tặng tôi chứ không phải vì 2 đô la nhỏ nhoi  kia.. Chợt nghĩ nếu mình xăm xăm đi đến, đưa thậm chí 1000 rupee để yêu cầu ông vét cho một tí đất ở gốc bồ đề chắc ổng chộp mình giao cho nhà chức trách. Mà mua bán như vậy thì còn gì là ý nghĩa nữa!Có phần hổng cần gì lo. Mình quay lại tạ ơn cây Bồ Đề một lần nữa.
   Tối đó, đặt một muỗng đất thiêng vào một cái hộp bạc rồi cúng dường Lama Dorje. Ông rưng rưng muốn khóc, gói cẩn thận vào ba lớp lụa rồi đặt vào trong hộp đựng kinh.