22 tháng 10, 2012

DASHAIN- TẾT NEPAL: 1,5 TRIỆU NGƯỜI TỪ KATHMANDU VỀ QUÊ ĂN TẾT

Đang hoàn chỉnh , mời xem sau vài ngày nữa....
 




DASHAIN- TẾT NEPAL: NGÀY THỨ 7 PHULPATI


PHULPATI đến cố cung Malla ở Kathmandu
DASHAIN – TẾT NEPAL diễn ra 15 ngày. Hôm nay, 21/10/2012, là ngày thứ 7, tên chính thức là Saptami (ngày thứ bảy), nhưng triều đại Shah của Gorkha đã gọi ngày này là PHULPATI. Phulpati là một nghi lễ mang các phẩm vật dành cho việc cúng bái và ban phúc (jamara: mạ non, bột màu, rượu, lá chuối, mía thanh diệu, nước thiêng…) từ hoàng cung của Gorkha (triều đại quân chủ cuối cùng của Nepal, mới vừa chấm dứt vào năm 2007) đến hoàng cung cổ của triều đại Malla (triều đại bị Gorkha lật đổ). Nghi lễ mang các vật thánh này có liên quan tới việc đánh chiếm Kathmandu của Gorkha (sẽ thuật trong một bài khác).










Đoàn rước PHULPATI khởi hành từ Gorkha

PHULPATI
PHULPATI

PHULPATI



  Đầu đoạn video trên đây, các bạn sẽ thấy PHULPATI đến được Cố cung Malla ở Kathmandu. (Sẽ cập nhật giải thích chi tiết sau).
 Từ Cung điện ở Gorkha (100km tây Nam Kathmandu) đoàn mang vật phẩm đi bộ đến Dhading, 40km Tây Nam Kathmandu, tạm dừng chân nghỉ ở đấy 1 đêm. Từ Dhading 6 người Brahmin (tư tế Hindu) đảm trách việc mang t/ gánh tới Kathmandu. Đến Jamal (một địa điểm 1km gần trung tâm Kathmandu) Phulpati được châm đầy nước thiêng (holy water), cây chuối non, mạ non, cây mía được bọc trong vải đỏ như là vật pah63m dâng cúng lên Nữ thần Durga và được các Brahmin gánh trên kiệu bên trên che bằng lọng vàng để đi đến Cố cung Malla ở trung tâm Kathmandu (thường gọi là Hanuman Dhoka - Cổng thần khỉ, vì ở ngay cạnh cổng có một tượng thần Hanuman). Đám rước này được hộ tống bởi các Trung đội danh dự của Quân đội, cảnh sát Nepal, các viên chức chính phủ và 5 vị tư tế Hindu cao cấp. Phulpati sẽ được dâng lên thần durga và đến ngày thứ 10 (Bijaya Dashami) sẽ mang ra ban phúc cho tất cả mọi người như là quà của Nữ thần Durga.

Chào mừng Phulpati Day tại quảng trường Tuldhikhel

Chào mừng Phulpati Day tại quảng trường Tuldhikhel

Bảy loạt đại bác bắn bằng súng thần công cổ để khởi đầu Dashaintrước sự chứng kiến của Tổng thống, Thủ tướng và quan chức chính phủ - trước kia sẽ là Hoàng gia)

Dân Newari mừng Dashain

 Từ ngày Saptami/Phulpati thì Dashain mới thực sự diễn ra. Văn phòng, cơ quan nhà nước, cửa hàng, quán ăn… hầu như đóng cửa. Mọi người quay về quê nhà để nhận tika (dấu phúc màu đỏ lên trán) từ bậc trưởng thượng/người lớn trong nhà.
  Tại các bãi đất trống công cộng linge ping (đu tiên) được dựng lên để các nhóc teen vui chơi.

LINGE PING - ĐU TIÊN

DASHAIN - TẾT NEPAL

Đang viết ....

20 tháng 10, 2012

CHÚC MỪNG "TẾT" NEPAL!

Các bạn thân mến,
 TẾT đang diễn ra trên khắp đất nước Nepal.
 Nhân dịp này Nguyễn Phú Nepal Blog cũng xin "Mượn hoa cúng Phật" cầu chúc tất cả bạn đọc xa gần dồi dào sức khỏe, thịnh vượng và may mắn.
HAPPY DASHAIN !

  Dịp Tết Nepal rảnh rỗi ngồi xem lại blog của mình suốt hơn nửa năm qua, nhân có góp ý của các bác qua comments trên TTX Vỉa Hè. Giật mình.
  Suốt hơn nửa năm qua, mình viết bài lộn xộn, không tập trung, đa phần là cóp nhặt từ các web và Blog khác nhất là mấy tháng gần đây (22/56 entries trong vòng 6 tháng). Có nhiều bài "tào lao". Cách viết và trình bày ý kiến có vẻ "ta đây". Sử dụng các chiêu "câu view" thô thiển... Còn nhiều và nhiều khuyết điểm khác.
  Từ đây, mình sẽ cố gắng tập trung vào các chủ đề gần gũi và nắm chắc như: lịch sử và nghệ thuật Phật giáo, Himalaya, Nepal đất nước-phong tục-con người, khảo cứu về các nước Nam Á và nền văn minh Ấn Độ... (những chủ đề mà dành cả đời người để viết cũng không hết và là những chủ đề bổ ích cho bạn đọc Việt Nam vốn thiếu thốn thông tin từ khu vực Nam Á này)... hết sức tránh sa đà vào những chủ đề xa tầm tay với, và mình không có đủ thẩm quyền bình luận cũng như trình độ hiểu biết, thông tin để lạm bàn. 
  Kính mong các bạn vẫn tiếp tục ủng hộ, nhín thời giờ vào thăm  blog này.
  Trân trọng cám ơn!

  Nguyễn Phú

29 tháng 8, 2012

LỄ VU LAN NGUYÊN THỦY

Nhân mùa Vu Lan xin post lại loạt bài đã đăng trên Giác ngộ vài năm trước về Lễ Vu Lan. Lý do là vì mình đọc được rất nhiều bài viết đảo điên thứ tự về lễ Vu lan, kể cả của các "học giả" . Thay vì phải lần tìm về nguồn cội của một nghi lễ có xuất xứ từ chính Đức Phật (do chính Phật Thích-ca lập nên, nghĩa là trên 2500 năm), tại địa phương của nó, các "học giả" nhà ta lại lộn đầu xuống đất, dịch ngược từ VU-LAN của tiếng Trung Quốc sang tiếng Sanskrit thành ULLAMBALA, khiên cưỡng theo cái nghĩa TỘI TREO NGƯỢC - một trong những hình phạt ở địa ngục. Đăng bài này lại để nhắc các "học giả" rằng Đạo Phật xuất xứ từ Ấn Độ, không phải Trung Quốc và dịch ngược danh từ riêng từ tiếng Trung quốc về tiếng Phạn sẽ đi sai đường. Hãy trả lại Cesar cái gì của Cesar!



PHN 1: KHẢO SÁT VỀ NGUỒN GỐC LỄ VU-LAN Ở KATHMANDU, NEPAL

*********


Vu Lan "Bồn"


Chúng tôi đoan chắc rằng GŪLA chính là từ nguyên của Vu-lan khi phiên âm sang tiếng Trung Quốc. Cũng như Vu-lan bồn là để chỉ cái chậu chứa năm thứ vật thực cúng dường chư Phật hoặc chư tăng, ni trong ngày Pancha Dana; nghĩa bóng là Lễ Cúng Dường mùa Vu Lan (không phải dịch ngược Vu lan từ tiếng Trung sang tiếng Phạn thành ullambala - tội treo ngược rồi áp đặt nghĩa Lễ Đảo Huyền cho Vu lan như một số "học giả" vẫn làm vào kỳ Vu lan hàng năm - NP).




Một số “bồn” dùng trong mùa Vu-lan của người Newari: GULPA, và GULU dùng đựng các vật thực cúng dường Chư Phật (bình bát bằng đồng). GULPA và GULU chính là từ nguyên của Vu-lan Bồn.






  Trong quá trình 5 năm cư trú tại Nepal, chúng tôi đã có dịp may để khảo sát những phong tục cổ truyền của dân chúng địa phương tại đây. Một trong những lễ trọng trong năm, hoặc có thể nói là quan trọng nhất, của Phật tử ở đây là Đại lễ Vu-lan. Lễ Vu-lan của Nepal có gì khác với lễ Vu-lan tại Trung Quốc và Việt Nam? Nó được thực hiện như thế nào? Nguồn gốc của lễ ấy?
    Trước tiên chúng ta hãy nhìn lại nguồn gốc của lễ Vu-lan ở Trung quốc.

·                        Nguồn gốc Lễ Vu-lan tại  Trung Quốc 

Phần này chúng tôi không đi sâu vào chi tiết về từ nguyên, lịch sử hoặc  cách thức thực hành nghi lễ. Chỉ điểm qua một số nét chính để có cơ sở so sánh với Lễ Vu-lan tại Nepal.
Có lẽ bị ảnh hưởng từ Phật giáo Trung hoa, Phật giáo của Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên cũng tổ chức lễ Vu-lan gần giống như của Trung Hoa. Nói chung, tất cả các nước trên đây tổ chức lễ Vu-lan dựa theo bài kinh “Phật Thuyết Kinh Vu-lan” do Ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào thời Tây Tấn (265-316 AD). Kinh này nói về sự tích Phật dạy Ngài Mục-Kiền-Liên cứu mẹ bị đọa ở địa ngục. Và tất cả đều thống nhất ở một điểm theo truyền thống Phật giáo: ngày rằm tháng bảy (theo âm lịch Trung Hoa) là ngày Chư Phật hoan hỷ, oai lực chư tăng được tăng trưởng sau ba tháng an cư, và là ngày tự tứ do đó chư tăng hội họp đầy đủ.
 …Rằm tháng bảy là ngày tự tứ - Mười phương Tăng đều dự lễ này - Phải toan sắm sửa chớ chầy - Thức ăn trăm món, trái cây năm màu - Lại phải sắm gường nằm nệm lót - Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu - Món ăn tinh sạch báu mầu - Ðựng trong bình bát vọng cầu kính dâng - Chư Ðại Ðức mười phương thọ thực - Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng - Lại thêm cha mẹ hiện tiền - Ðặng nhờ phước đức tiêu khiên ách nàn - Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ - Dầu ở đâu cũng tựu hội về - Như người thiền định sơn khê - Tránh điều phiền não chăm về thiền na - Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả - Công tu hành nguyện thỏa vô sanh - Hoặc người thọ hạ kinh hành - Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tong - Hoặc người đặng lục thông tấn phát - Và những hàng Duyên giác Thinh văn - Hoặc chư Bồ tát mười phương - Hiện hình làm Sãi ở gần chúng sanh - Ðều trì giới rất thanh rất tịnh - Ðạo đức dày chánh định chơn tâm - Tất cả các bậc Thánh phàm - Ðồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa…”  (Phật Thuyết Kinh Vu-lan)
Thật ra, tập tục cúng bái tổ tiên và tẩy trừ ma quỷ vào dịp rằm tháng bảy tại Trung Quốc đã xuất hiện từ rất lâu đời (ít nhất là từ đời Hán). Còn Tết Trung nguyên của Đạo giáo thì cũng có trước thế kỷ thứ VII-AD. Khi Phật giáo lan truyền đến Trung Quốc, có lẽ trùng hợp về thời điểm  và quan niệm báo hiếu nên người Trung Quốc đã hấp thụ lễ Vu-lan của Phật giáo và biến lễ Vu-lan tại Trung Quốc trở thành một lễ dân gian mang tính tổng hòa của: tập tục thờ cúng tổ tiên + Tết Trung nguyên của Đạo giáo + lễ báo hiếu của Phật giáo.
Nội dung Phật giáo có thể thấy qua việc thiết lễ cúng dường chư tăng và cầu nguyện cho người đã khuất. Còn những tập tục như cúng cô hồn, đốt vàng mã là những tập tục còn sót lại của tín ngưỡng dân gian Trung Hoa. Sau này Mật tông Trung Hoa còn soạn ra thêm lễ cúng thí ngạ quỷ. Từ đó có thể thấy Lễ Vu-lan ở Trung Quốc và các nước ảnh hưởng bởi Phật giáo Trung Quốc không còn thuần khiết và bị pha trộn bởi những yếu tố văn hoá địa phương.
Việc tìm hiểu nguồn gốc lễ Vu-lan tốt nhất nên khảo sát tại quê hương bản quán của nó tức địa bàn Bắc Ấn. Tuy nhiên Phật giáo tại vùng Bắc Ấn đã tàn lụi hơn 1000 năm trước, những lễ tiết Phật giáo cũng đã nhạt nhòa theo thời gian.
May mắn thay cho chúng tôi, một địa điểm tại Nepal vẫn còn bảo lưu được lễ Vu-lan nguyên thủy: Thung Lũng Kathmandu.


·                        GŪLA- tháng lễ trọng của cộng đồng Newari

    GŪLA là một lễ hội đặc biệt của Nepal và chỉ duy nhất có ở Thung Lũng Kathmandu (Kathmandu Valley) – đây chính là nước Nepal cổ đại với tên gọi Nepal-Mandala vào thời Asoka Đại Đế.
Xin nói qua một chút về lịch sử của Kathmandu Valley.
Về địa lý, Kathmandu Valley nằm cách Kapilavastu của Vương quốc Sakya 400km. Thung lũng này nằm trên độ cao hơn 2000m trên mực nước biển và được bao bọc bởi những ngọn núi cao. Đặc điểm này đã làm nên cái tên cổ đại nổi tiếng của thung lũng vì những ngọn núi bao bọc xung quanh giống như những cánh hoa sen trong một đồ hình Mandala. Theo huyền sử, Kathmandu chính là một cái hồ lớn vào thời tiền sử (các khảo cứu địa chất mới nhất tại đây đã chứng minh điều này). Những sườn núi xung quanh hồ lớn ấy là nơi cư trú của sắc dân Naga – nhóm chủng tộc Mongoloid của Hymalaya mà địa bàn cư trú kéo dài đến tận Trường Sơn của Việt Nam. Cũng theo huyền sử, Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát đã tìm đến đây để chiêm bái Swayambhu (Ánh-Sáng-Tự -Sinh từ một hoa sen do Đức Phật Bipaswi gieo trồng). Ngài Văn Thù đã dùng báu kiếm của mình cắt một lối thoát nước và biến cái hồ ấy trở thành Thung Lũng Kathmandu, còn hòn đảo giữa hồ trở thành ngọn đồi Swayambhu ngày nay. Sắc dân Naga sống gần đấy đã quy tụ lại dưới sự lãnh đạo của một đệ tử của Ngài Văn Thù, sau này được ghi nhận trong sách sử cổ đại của Ấn Độ là Kirat hay Kiran. Bộ tộc Kiran đã từng tham chiến và giúp đỡ có hiệu quả trong cuộc chiến tranh của liên minh các vương quốc Ấn Độ chống đạo quân viễn chinh của Alexander. Sau này trong công cuộc thống nhất Ấn Độ của Chandragupta (ông nội của Asoka Đại Đế), họ trở thành một đồng minh tin cậy của ông trong việc kiến tạo Đế quốc Maurya. Chính Asoka, sau khi hành hương chiêm bái tất cả các thánh tích Phật giáo của Ấn Độ đã đi đến Nepal-Mandala vào năm 250 trước Công Nguyên. Ở bốn góc của thành phố cổ Patan (trung tâm quyền lực của Nepal cổ đại) còn tồn tại bốn bảo tháp lớn được truyền tụng rằng chúng đã được dựng nên bởi chính Asoka khi ông đến thăm Nepal-Mandala. Một huyền sử nữa là Asoka đã gả con gái của ông là công chúa Charumati cho một hoàng thân trong triều đình Kiran.

Bảo tháp Swayambhu mùa Gula
nhìn từ cửa sổ phòng tác giả


Về truyền thống Phật giáo, có lẽ Phật giáo đã du nhập vào Nepal-Mandala từ thời Đức Phật. Huyền sử cũng nói rằng chính Đức Phật Thích Ca đã viếng thăm một vương tử Sakya tại Nepal-Mandala trước khi Ngài nhập Niết bàn, và sau này Ngài A Nan cũng nhiều lần đến Nepal-Mandala thăm viếng và truyền đạo cho các quý tộc Sakya lưu lạc đến đây sau khi vương quốc Sakya ở Kapilavastu bị tận diệt. Nagarjuna (Long Thọ), Buddhaghosa (Phật âm), Atisa đều đã đến thăm viếng Thung lũng Kathmandu và Swayambhu. Vì thế Phật giáo tại Kathmandu Valley có một truyền thống sâu xa và vững chắc, kéo dài không ngưng nghỉ suốt từ thời Đức Phật còn tại thế cho đến nay. Cho đến cuối thế kỷ 19, những nhà khoa học Anh đã ghi nhận rằng có đến 80% dân số của Kathmandu Valley theo đạo Phật. Chỉ từ sau khi có luật chống lại Phật giáo vào thời Rana những năm 1910-1930 và những hành động quá khích của chính quyền để thiết lập một vương quốc thuần Hindu thì số lượng người theo đạo Phật bị giảm sút nghiêm trọng. Chỉ còn trên dưới 20% vào thời điểm hiện nay. Mặc dù vậy, hầu hết những gia đình đã “cải giáo” sang Hindu đều giữ những tập tục Phật giáo của mình. Và điều quan trọng hơn, cộng đồng “thuần khiết Phật giáo” Sakya vẫn giữ nguồn mạch Phật giáo chảy mãi tại Kathmandu Valley.




Phật tử Tây Phương cũng về chiêm bái Swayambhu mùa Gula


Đối với Phật tử của Kathmandu Valley, sự kiện quan trọng nhất trong năm là thực hiện một tháng lễ trọng GŪLA.

GŪLA là tên của tháng thứ 10 trong lịch Newari (Nepal Era Calendar) - một nguyệt lịch được sử dụng từ năm 880 AD tại Kathmandu Valley. GŪLA là một từ Newari cổ (Newari là ngôn ngữ của cư dân bản địa ở Thung Lũng Kathmandu có nguồn gốc từ ngôn ngữ Bhrami được sử dụng rộng rãi vào thời Asoka). GŪLA cấu thành từ “gun” -điềm lành và “la”- một khoảng thời gian (trong trường hợp này là một tháng).  Chính vì vậy, GŪLA có nghĩa “tháng tốt lành”. Theo lịch Ấn Độ, GŪLA bắt đầu từ ngày thứ nhất của tuần trăng Srawan và chấm dứt vào ngày đầu tiên của tháng Bhada (Tám-Chín). Theo dương lịch, tháng GŪLA thường rơi vào khoảng giữa tháng Tám đến giữa tháng Chín, và hoàn toàn trùng khớp với tháng Bảy âm lịch của Việt Nam và Trung Quốc.
Vào tháng GŪLA, sau khi lúa đã cấy xong, Phật tử Newari bước vào tháng lễ quan trọng nhất trong năm của họ. Dễ quan sát hơn cả là việc họ chiêm bái ngọn đồi Swayambhu-Thánh địa Phật giáo quan trọng nhất của Thung Lũng Kathmandu.



Phật tử Newar kinh hành vòng quanh bảo tháp Swayambhu

Suốt cả tháng GŪLA, Phật tử Newari cầu nguyện, chay tịnh, thiền quán và chơi âm nhạc tôn giáo. Trong tháng GŪLA, họ không ăn thịt gà và trứng. Từ rất sớm (4-5 giờ sáng) họ đi bộ (đa số đi chân trần) thành từng nhóm đến Swayambhu cùng với những ban nhạc cổ truyền dẫn đầu mỗi nhóm để thực hiện những buổi lễ đặc biệt bất kể thời tiết thế nào. Nhạc cụ chính của bất cứ ban nhạc nào là Dhah (trống 3 tấc, một nhạc cụ cổ truyền tồn tại hơn 2,000 năm nay ở Thung lũng Kathmandu, các nhà khảo cổ đã tìm thấy chứng tích của nó từ thời Kiran- Asoka Đại Đế). Những chàng trai, cô gái Newar đeo những cái trống cổ truyển này trên cổ và vỗ bằng tay trái còn tay phải gõ bằng một cái dùi đặc biệt đầu cuốn tròn như dấu “?”. Nhóm nhạc công tài tử này còn có những người thổi kèn và chơi những cái chập chõa nhỏ như chén ăn cơm.



Nhạc cổ truyền được các thế hệ chơi trong mùa Vu-lan



Vào tháng GŪLA,  Swayambhu đông nghịt người chiêm bái đủ mọi lứa tuổi, mọi thành phần. Không chỉ Phật tử mà cả người theo đạo Hindu (hoặc Phật giáo cải sang Hindu) cũng đi đến Swayambhu để tỏ lòng kính ngưỡng Đức Phật. Họ trèo lên 365 bậc đá của ngọn đồi, vượt qua những khu rừng thưa, những tượng đá của các linh vật, những pho tượng Phật cổ bằng đá to ngoại cỡ, và những con khỉ ngồi dọc theo đường đi để chờ thức ăn… để lên tới đỉnh đồi. Người người chen chúc nhau trong không gian chật hẹp và càng chật hẹp hơn bởi đèn dầu, cờ phướn, tượng phật và tranh cuộn thanka trang hoàng các tự viện và bàn thờ, bởi mùi nhang trầm hoà quyện cùng tiếng chuông và tiếng lăn của những bánh xe cầu nguyện đặt vòng quanh bảo tháp. Đây đó, những nhóm tăng ni ngồi tụng thật lớn những bộ kinh Phật cho mọi người cùng nghe, trong khi những nhóm nhạc tài tử thì tụ tập bên cạnh những tháp đá và chơi những bản nhạc cổ truyền hoặc hát lời ngợi ca chư Phật. Theo truyền tụng, việc chiêm bái này trong tháng GŪLA đã được thực hiện ở Thung Lũng Kathmandu nhiều thế kỷ , có lẽ từ 2,500 năm trước. Nghi thức này lặp lại mỗi ngày trong suốt tháng GŪLA. Mỗi ngày tiếp theo, số lượng các nhóm nhạc và người cầu nguyện ngày càng đông khi những người ở xa xôi hơn cũng tề tựu về.
Tại Patan (thành phố cổ nhất của Thung Lũng Kathmandu, nơi được mệnh danh là Thành phố Phật giáo), trong khi mưa thoả cơn khát của đất đai và vạn vật, Phật tử nhắc nhở nhau nhớ lại những lời Phật dạy. Phật tử Newari ở đây thực hiện một tháng lễ trọng bằng cách tỏ lòng tôn kính Đức Phật, nhắc nhở nhau cố gắng thực hiện ngũ giới trong cuộc sống hàng ngày, tối thiểu là một tháng.   



Vaijracharya – giai cấp tư tế Phật giáo của người Newar - tụng kinh mùa Gula



Những nữ Phật tử tắm gội sạch sẽ và chỉ ăn một bữa mỗi ngày trong suốt tháng GŪLA. Mỗi ngày, trước khi nấu nướng thức ăn trong ngày, những người phụ nữ nắn những cái tháp nhỏ bằng đất sét (caitya) và cầu nguyện trước chúng với lòng tin rằng hành động đó sẽ tích lũy công đức cho họ và gia đình. Những cái tháp nhỏ đó được cầu nguyện và giữ cẩn thận cho đến ngày cuối cùng của tháng GŪLA. Vào ngày cuối cùng của tháng GŪLA, những người phụ nữ thực hiện một nghi lễ đặc biệt: mặc những bộ trang phục đẹp nhất mà họ có cùng với nữ trang đắt tiền họ bưng những cái tháp nhỏ trong một cái khay bạc hoặc đồng theo sau những nhóm nhạc cổ truyền đi tới một dòng sông gần nhà. Ở đây họ thực hiện nghi lễ cuối cùng trước các Caitya rồi đặt chúng xuống nước. Kết thúc mùa GŪLA, số caitya có thể lên đến hơn trăm ngàn cái.





Các caitya bằng đất sét được nắn bằng tay và cúng bái suốt mùa Vu-lan




Phật tử Newar tụng kinh tại Golden Temple – Patan



Vào ngày thứ tám tháng GŪLA, Phật tử ở Patan thực hiện lễ “Pancha Dana” - Lễ dâng cúng năm thứ vật thực (gạo lức, gạo trắng, đậu, lúa mì và muối).  Đó chính là lễ cúng dường cho các chư tăng ni theo nghi thức cổ truyền. Huyền thoại truyền rằng đó chính là ngày khi Siddhartha từ bỏ lối tu khổ hạnh để chọn con đường Trung Đạo và sau đó chứng ngộ thành Phật. Trong ngày Pancha Dana, các cửa hiệu và nhà cửa trang hoàng với hoa và các tranh tượng Phật. Phụ nữ ngồi trước cửa nhà với những cái bồn bằngđồng chứa đầy 5 thứ dâng cúng (nguồn gốc của Vu-lan bồn), và dâng mỗi lần đầy hai tay vào bình bát của các tăng ni đi ngang qua theo phong tục được chính Đức Phật thực hành hơn 2500 năm trước. Các tăng ni ban phước cho mỗi thí chủ bằng cách chạm vào trán của họ bằng những cuốn kinh Phật, cầu chúc cho họ nhận được phước duyên và sự bảo hộ của chư Phật. Khi trời chạng vạng tối, một nhà sư đi vòng quanh thành phố và lắc một cái chuông báo hiệu kết thúc ngày Pancha Dana, khi đó các tăng ni không nhận thêm lễ vật dâng cúng nữa. Sau đó, vào ngày thứ 28 của tháng GŪLA, Pancha Dana lại đươc tổ chức ở hai thành phố khác của Thung Lũng Kathmandu là Kathmandu và Bhaktapur.


Vào ngày Pancha Dhana, các sư, ni hoặc thành viên của họ Sakya, Vajracharya thực hành nghi thức khất thực theo truyền thống của Đức Phật. Phụ nữ của những gia đình Phật tử ngồi trước cửa nhà với một hoặc nhiều “bồn” chứa đầy gạo, muối, tiền xu, các loại đậu để cúng dường cho họ.


Hai Vajracharya đang đi khất thực


Một cửa tiệm ở khu trung tâm buôn bán sầm uất Ason trang hoàng đẹp đẽ với tượng Phật 
và đích thân bà chủ đứng cúng dường suốt cả ngày.



Một nữ Phật tử trong ngày Pancha Dhana, 
đến 3 giờ chiều thì hầu hết các vật thực cúng dường đã cạn.



Một bô lão Sakya trong trang phục cổ truyền 
đang nhận vật thực cúng dường từ Phật tử.




Bahi Doe Boyegu, sự trưng bày các tượng Phật trong sân chùa rơi vào ngày thứ 12, và có thể kéo dài vài ngày, tuỳ thuộc vào quyết định của cộng đồng Sakya của tự viện đó. Trong ngày này, những thánh tích và tượng cổ được trưng bày cho công chúng chiêm bái và cầu nguyện. Đó là những tượng gỗ tuổi đời vài thế kỷ, có tượng đã bị mối mọt làm hư hại. Đó là những bức tranh cuộn thanka, và những tấm thảm treo tường cổ thể hiện cuộc đời đức Phật hoặc các Thánh Tăng, đó còn là những hạt gạo ngoại cỡ được nói rằng đã được trồng ở Thung Lũng Kathmandu vào thời cổ đại. Mỗi ngày có đến hàng trăm người đến chiêm bái ở mỗi tự viện. Tại một ngôi chùa ở Thamel những cuốn kinh cổ hơn ngàn năm tuổi được viết bằng mực hoàng kim được trưng bày một lần duy nhất trong năm cũng vào dịp này.
Tượng Phật trưng bày tại Golden Temple

Kinh cổ được trưng bày mùa Gula

Vào ngày rằm, Phật tử tựu tập tại các Bảo tháp Asoka ở Patan để cầu nguyện.
Vào ngày thứ 17, diễn ra Mata-Ya , Lễ Đèn  (xin xem Phần 2). Tên đầy đủ của ngày lễ này là Mata Puja, với mata là đèn và puja là nghi lễ cúng bái Thần - Phật. Vào ngày ấy, mọi người bưng những cây đèn dầu đi không mệt mỏi vòng quanh khắp các đường lớn, hẻm nhỏ của Patan để cầu nguyện cho những người thân đã chết. Họ đi chân trần mặc những bộ đồ đẹp nhất và tụng đọc những bài ngợi ca Chư Phật, Đi đầu luôn luôn là những nhóm nhạc cổ truyền.
 Bắt đầu từ mờ sáng, những đoàn người kéo đi xuyên qua mê cung của các con đường nhỏ hẹp và hẻm hóc của thành phố cổ Patan, rắc gạo, tiền xu và bột đỏ lên tất cả các khám thờ tượng, tháp, chùa, đền dọc theo đường đi. Họ đi càng nhanh khi trời đã đến giữa trưa, và quan niệm rằng càng khổ nhọc bao nhiêu thì người thân đã khuất của họ sẽ bớt đau khổ chừng ấy. Họ rắc những đồng xu trên đường đi trong khi gọi tên người thân đã khuất, trong những người khác hát vang những bài ca ngợi ca sự chiến thắng của Đức Phật trước ma vương Mara. Đến quá trưa thì hầu hết mọi người gần như kiệt sức, bột đỏ chảy dài trên thân thể thành những dòng mồ hôi đỏ, bám đầy cả trên tóc, trên quần áo. Nhưng họ vẫn không dừng lại. Một số thanh niên và đàn ông của những gia đình có người thân chết trong vòng một năm qua cởi trần và quỳ lạy trong đất bụi trước mỗi khám thờ dọc đường. Jyapu, cộng đồng nông dân bản địa của Thung Lũng Kathmandu, tin chắc rằng Lễ Đèn là để tưởng niệm người thân đã khuất của họ.




Chúng tôi nghĩ rằng GŪLA chính là từ nguyên của Vu-lan khi phiên âm sang tiếng Trung Quốc. Cũng như Vu-lan bồn là để chỉ cái chậu chứa năm thứ vật thực cúng dường chư Phật hoặc chư tăng, ni trong ngày Pancha Dana.






Một số “bồn” dùng trong mùa Vu-lan của người Newari: GULPA, và GULU dùng đựng các vật thực cúng dường Chư Phật (bình bát bằng đồng)







Bồn KAMALA (trên) và khay SULIN (bên dưới)


Một điều thú vị là từ Kathmandu Valley cho đến Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên thì ở đâu tinh thần kính ngưỡng Chư Phật-Chư Tăng và báo hiếu cũng là trọng tâm của lễ Vu-lan.


                                           Kathmandu-Nepal, Mùa GŪLA – Vu-lan 2010

                                                       NGUYỄN PHÚ
(Bài viết này có tham khảo tư liệu từ tác giả Đồng Thành, Mary Slusser và văn bản cổ của cộng đồng Newar)

PHN 2:  MATA YA - LỄ ĐÈN MÙA VU LAN
CỦA CỘNG ĐỒNG NEWARI

18 tháng 6, 2012

RAMGRAM – BẢO THÁP NGUYÊN THUỶ LƯU GIỮ XÁ-LỢI PHẬT THÍCH-CA - PHẦN 2

-->
BÀI NÀY ĐÃ ĐĂNG TRÊN 
NGUYỆT SAN GIÁC NGỘ
SỐ 195 - THÁNG 6/2012
PHẦN 2
III - NHỮNG GHI NHẬN TRONG LỊCH SỬ VỀ BẢO THÁP RAMGRAM

    Sau khi xây dựng bảo tháp thờ phượng Xá-lợi Phật Thích-ca, Ramgram trở thành trung tâm hành hương và chiêm bái của toàn cõi Diêm-Phù-Đề (Ấn Độ).
  Như đã trình bày trong Phần 1 của bài này, chuyến viếng thăm Bảo tháp Ramagrama nhằm thu thập xá-lợi của Đại đế Ashoka đã được ghi nhận bởi hầu hết các sử liệu cổ đại. Đồng thời các sử liệu cũng ghi nhận một trong những Phật sự lớn lao của Asoka là xây dựng 84,000 bảo tháp. Trong số các bảo tháp đó, bảo tháp Sanchi tại bang Madhya Pradesh trung tâm lục địa Ấn Độ đã vượt qua sự khắc nghiệt của thời gian tồn tại cho đến ngày nay. Theo các nghiên cứu khoa học, bảo tháp Sanchi được xây dựng bởi chính Asoka vào thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên [chúng tôi sẽ có bài riêng về bảo tháp này trong loạt bài về Asoka]. Vào thế kỷ thứ 1 sau Công Nguyên, bốn cổng bằng đá chạm khắc tinh xảo được thêm vào cấu trúc của bảo tháp Sanchi. Thật may mắn cho tôi, khi nghiên cứu thực địa tại bảo tháp Sanchi đã tìm thấy tại đấy một phù điêu mô tả bảo tháp Ramagrama. Duyên lành! Thế là chúng ta có được một chứng cứ lịch sử bằng hình ảnh đã hai ngàn năm tuổi về hình dáng của bảo tháp Ramagrama. Phù điêu này (ở cách xa Ramagrama trên 2,000km) đã chứng tỏ địa vị và sự nổi tiếng của Ramagrama trong lịch sử Phật giáo cổ đại. Phù điêu này chính là một sử liệu độc đáo và vô giá về sự tồn tại của bảo tháp Ramagrama.
(Xin bấm vào hình để phóng to lên)

Hình: Bảo tháp Ramagrama trên phù điêu tại Sanchi – Ấn Độ.


    Nguồn sử liệu khác đề cập đến Ramagrama đến từ các nhà chiêm bái Trung Hoa. Trong Phật Quốc Ký của Ngài Pháp Hiển vào thế kỷ thứ 4 sau Công Nguyên và Tây Du Ký của Ngài Huyền Trang thế kỷ thứ 7 sau Công Nguyên đều có đề cập đến Ramagrama. Chúng ta hãy đọc lại các hồi ký này:
Phật Quốc Ký – Pháp Hiển, Chương 23:

Rama [grama] và bảo tháp của nó.

Phía Đông của nơi Đức Phật đản sinh [Lumbini] ở khoảng cách 5 do-tuần có một vương quốc gọi là Rama. Vua của nước này đã được chia một phần xá-lợi Phật, mang về nước an trí và xây một bảo tháp bên trên, đặt tên là Bảo tháp Rama. Bên cạnh bảo tháp có một cái hồ, trong hồ có một vua rồng thường xuyên canh giữ bảo tháp và cúng dường xá-lợi cả ngày lẫn đêm.

Tây Du Ký – Huyền Trang, Quyển thứ  sáu, Phần 3:
3) Nước Lam Ma (Rama) bây giờ đã hoang phế không còn dấu vết gì, thành ấp đã đổ nát xiêu vẹo, người dân thưa thớt. Thành xưa ở phía đông nam có một Bảo Tháp lợp ngói cao gần 100 chi [Chi = gang tay, 100 gang tay vào khoảng 20m – chú thích của NP].


  Sau Ngài Huyền Trang không có thêm bất kỳ ghi nhận nào về Ramagrama. Lịch sử và nơi tọa lạc của Ramgram bị rơi vào quên lãng.

IV – TÁI KHÁM PHÁ BẢO THÁP RAMAGRAMA

  Hơn 1000 năm trôi qua, vào những năm cuối cùng của thế kỷ 19, trong cơn sốt nhằm tái khám phá các Phật tích ở Ấn Độ của những nhà nghiên cứu lịch sử, các “nhà khảo cổ” – thực chất là những kẻ cướp lăng mộ Tomb Raider, những kẻ hám danh muốn ghi tên vào lịch sử bằng những phát hiện chấn động… các “nhà khảo cổ” chuyên nghiệp lẫn không chuyên nghiệp của Anh sau khi càn quét Ấn Độ đã bắt đầu lấn bước sang biên giới Nepal.
  Tại Nepal, vào thời điểm ấy có một dòng họ quý tộc nắm hết quyền bính vượt cả quyền vua – dòng họ Jung Bahadur Shumsher Rana, gọi tắt là Rana. Họ tộc này thực hiện liên tiếp những vụ thảm sát đẫm máu trong cung đình hoàng gia Nepal để chiếm giữ quyền lực thực sự qua danh vị Thủ tướng truyền đời biến nhà vua thành kẻ bù nhìn trong suốt 100 năm.
   Giai đoạn hai thập niên cuối cùng của thế kỷ 19, do tranh đoạt quyền bính trong gia đình, Tướng Khadga Shumsher Rana bị em ruột mình đày đi làm Phó vương Tansen-Palpa cai quản vùng Tarai vốn là vùng rừng thiêng nước độc vào thời điểm ấy.
   Khadga Shumsher Rana là một người có tài lại rất quyết tâm hấp thụ văn hóa Tây phương, nhất là Anh Quốc, có thể coi như người có học vấn Tây phương tốt nhất Nepal lúc ấy. Tiếp xúc, giao du rộng rãi với giới chính trị và học giả của thực dân Anh tại Ấn Độ, ông ta có tham vọng trở thành người đứng đầu Nepal trên mọi lĩnh vực một ngày nào đó. Khi cơn sốt khảo cổ Phật giáo cổ đại bùng lên khắp Ấn Độ, tướng Khadga cũng chớp lấy thời cơ, mong gắn tên mình vào một sự kiện chấn động thế giới nhằm đánh bóng tên tuổi, chuẩn bị cho cuộc mưu bá đồ vương ở Nepal. Chính ông chứ không phải Tiến sĩ Fourer là người tái khám phá Lumbini và tìm ra cột đá Asoka ở đấy [Xin có một bài viết riêng về scandal này sau]. Khadga cũng chính là người tìm ra hai trụ đá Asoka khác ở quê hương Đức Phật Thích Ca tại Gotihawa và Tilaurakot.  
   Tháng Hai 1889, tướng Khadga mời hai nhà khảo cổ của chính phủ Anh Quốc thuộc địa tại Ấn Độ đến thăm một khu vực khảo cổ mới mà ông ta đang khai quật. Nhận lời mời, ngày 11/02/1889 Tiến sĩ Hoey và Bác sĩ Waddell tháp tùng Tướng Khadga Shumsher Rana từ Lumbini đi về hướng Đông Bắc đến làng Saina-Maina (ngày nay đặt tên lại là Devadaha), 56km về phía Đông Bắc Lumbini. Tướng Khadga đã tìm thấy 1 tượng Phật nhỏ và một pho tượng phụ nữ đang cho con bú tại khu vực này, làm cho ông ta tin rằng ông đã tìm ra Devadaha, thành phố thủ đô của người Kolya, nơi Hoàng hậu Maya Devi nằm mơ thấy một con voi trắng nhập thai vào bụng bà và cũng là nơi Thái tử Siddhartha đã trải qua những tuần đầu tiên tại nhà ông ngoại là Vua Suprabuddha.
    Tiến sĩ Hoey đồng ý với lý thuyết của Tướng Khadga rằng con sông chảy ở phía Tây làng Saina-Maina chính là con sông cổ đại Rohini – biên giới tự nhiên giữa hai vương quốc Sakya và Kolya. Trong thời gian lưu lại làng Saina-Maina, Tiến sĩ Hoey được Tướng Khadga cho biết rằng dân địa phương có đề cập đến một gò đất tên là Bhaghaura. Vốn là một học giả về ngôn ngữ Ấn Độ cổ đại và nhất là lịch sử Phật giáo cổ đại, Hoey có linh tính rằng cái gò đất đó chính là bảo tháp Ramagrama tại địa phương có tên gọi nguyên thủy là Byaghapura. Đối chiếu với những ghi chép của các nhà chiêm bái Trung Hoa : cà hai đều đi về hướng Đông từ Lumbini đề đến Ramagrama, Hoey đề xuất ý tưởng rằng cái gò đất Bhaghaura chính là phần di tích còn sót lại của bảo tháp Ramagrama.
Giao lộ  Parasi, nơi Dr. Hoey định hướng để tìm đến Bhaghaura


Sông Rohini, biên giới tự nhiên giữa Sakya và Kolya

Đường về Ramgrama

Giao lộ đánh dấu lối rẽ vào Ramagrama đang xây dựng năm 2011

Cổng chào vào Ramagrama đang xây dựng năm 2011
  Hai ngày sau, Tiến sĩ Hoey chào từ biệt Tướng Khadga để quay về Ấn Độ – Bác sĩ Waddell đã đi Kapilavastu mấy ngày trước đó. Hoey đi theo hướng Đông Namđể đến một cái chợ nhỏ tên Parasi. Cách 7km phía Nam của thị trấn, Tiến sĩ Hoey xúc động nhìn thấy trên bờ con sông Jhalari ngự một gò tháp rộng lớn và không bị xâm phạm. Với kinh nghiệm của một học giả và nhà khảo cổ Ấn Độ cổ đại, Hoey kết luận rằng đó chính là Bảo tháp của người Kolya tại Byaghapura.



Ramagrama trải qua 2000 năm chỉ còn là một gò đất hoang tàn



   Suốt nhiều thập niên sau đó Ramagrama lại nằm im không được chú ý bởi giới nghiên cứu khảo cổ trong và ngoài Nepal. Mãi đến năm 1964, nhà nghiên cứu S.B. Deo của Ấn Độ khảo sát khu vực này và ghi nhận nó là một gò đất đáng để khai quật khảo cổ.
  Năm 1972, Nhà khảo cổ Babu Krishna Rijal của Cục Khảo cổ Nepal và các viên chức của Lumbini Development Trust thăm viếng nơi này và thừa nhận đây chính là Ramgram căn cứ vào các đặc điểm địa lý cùng với các ghi chép của các nhà chiêm bái Trung Hoa.
 Năm 1997  một nhóm các nhà địa vật lý từ Đại học Bradford – Anh Quốc khảo sát khu vực này và tìm thấy một vài chứng tích khảo cổ bên dưới mặt đất xung quanh khu gò đất.


Tác giả tại Ramagrama năm 2009
   Các khảo sát thực địa vào những thập niên cuối thế kỷ 20 cho thấy rằng đó là một gò gạch cao 7m bị đất phủ kín trên bờ con sông Jharahi (một trong những nguồn của sông Hằng). Liệu đấy có phải là Bảo tháp nổi tiếng Ramagrama không thì chỉ có khai quật khảo cổ mới có thể xác định được.
(Còn tiếp)
Tháng 06/2012
NGUYỄN PHÚ
(Kỳ tới: Khai Quật Khảo Cổ Ramagrama đầu thế kỷ 21)