6 tháng 5, 2012

RAMGRAM – BẢO THÁP NGUYÊN THUỶ LƯU GIỮ XÁ-LỢI PHẬT THÍCH-CA

-->
PHẦN 1                    
(Bài này được đăng trên Nguyệt San Giác Ngộ số đặc biệt mừng Phật Đản năm 2012)
GÒ ĐẤT BÊN HỒ NÀY LÀ DI TÍCH CÒN LẠI CỦA BẢO THÁP RAMAGRAMA NỔI TIẾNG HƠN 2500 TRƯỚC
Đã thành thông lệ, mỗi lần về thăm quê hương Đức Phật tôi đều phải ít nhất một lần ghé qua Ramgram. Đấy là nơi lưu giữ Xá Lợi nguyên thủy (Sàrìradhàtu) của Đức Phật Thích-ca và hầu như chưa hề bị xâm phạm cho đến ngày nay. Điều đó cũng có nghĩa là: đấy là nơi lưu giữ số lượng nhiều nhất Xá Lợi Phật Thích-ca trên thế giới cho đến ngày nay.
Ramgram, gọi đầy đủ phải là Ramagrama, là một địa danh quan trọng và nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo cũng như lịch sử họ Sakya (Thích-ca).







Lời dẫn của tác giả: Tôi lên đường đến Lumbini để làm công quả và công tác thiện nguyện một cách bất ngờ từ nhiều năm trước. Vùng đất Phật đã làm tôi yêu mến và gắn bó như  quê hương  của mình. Mà cũng đúng thôi, vì mọi Phật tử đều tự xem mình là con Phật và như thế quê hương của Đức Phật Thích-ca cũng chính là quê hương của chúng ta. Sáu năm trước tôi có viết một bài về Quê Phật (bài “Dòng tộc và quê hương Đức Phật” đã đăng trên Nguyệt San Giác Ngộ năm 2006). Thời điểm ấy, Vương quốc Nepal đang ở vào giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc nội chiến kéo dài hơn 10 năm với tổn thất sinh mạng lên đến hàng vạn người. Lumbini Zone là vùng giáp biên giới với Ấn Độ, du kích Maoist hoạt động mạnh mẽ và nghiêm cấm di chuyển trong vùng họ quản lý– nếu gặp phải quân du kích thì chỉ còn cách quay xe về không được đi tiếp. Quân đội của chính phủ hoàng gia cũng kiểm soát gắt gao sự di chuyển trong vùng, cứ cách vài cây số là có một trạm kiểm soát phong toả đường đi bằng chướng ngại vật kiên cố , mọi người - trừ lái xe - phải xuống xe kiểm tra người và hành lý. Chính vì thế, những cuộc khảo sát của tôi lúc bấy giờ chỉ mang tính cưỡi ngựa xem hoa (đi theo đoàn, nhiều địa điểm không tiếp cận được chỉ đứng nhìn từ xa, và không được phép chụp hình). Tôi rất tiếc cho bài viết không hoàn hảo ấy và luôn cầu nguyện Chư Phật và Bồ Tát gia hộ để tôi có thể bổ sung cho bài viết ấy hoàn hảo hơn. Cuối cùng, chiến tranh cũng chấm dứt vào năm 2007, Nepal xoá bỏ vương quyền để trở thành một nước cộng hòa. Thế nhưng mãi đến bốn năm sau đó tôi mới có thể thực hiện được nguyện ước của mình: “Về Quê”. Trong những năm đó, cơ duyên đã giúp tôi tiếp cận thêm nhiều nguồn tư liệu phong phú tại Kathmandu về cổ sử Nepal và Ấn độ. Loạt bài phóng sự “Về quê” này nhân dịp Phật Đản sẽ khắc hoạ chi tiết quê hương của Đức Phật Thích-ca (nhất là quê mẹ của Ngài tại Devdaha vốn chưa được biết đến nhiều như quê cha - Kapilavastu) bằng tư liệu thực địa của chính tác giả và nguồn sử liệu chưa được biết đến rộng rãi từ Nepal ; cũng như có tham khảo Phật quốc ký của Pháp Hiển, Tây du ký của Huyền Trang, tư liệu khảo cổ của các học giả Cambridge và Báo cáo khai quật Ramgram năm 2005 của Sukra Sagar Shrestha – Trưởng Ban khảo cổ thuộc Cục Khảo cổ Nepal. Vì các bài viết này là những phóng sự không phải bài khảo cứu về khảo cổ, tác giả xin cáo lỗi vì không thể chuyển tải chi tiết những thuật ngữ chuyên ngành của khoa học khảo cổ.
Mong rằng những thu nhặt nhỏ nhoi này sẽ giúp độc giả cảm thấy gần gũi hơn với Đức Từ phụ của chúng ta.    
******


I – NGUỒN GỐC RAMAGRAMA
Đã thành thông lệ, mỗi lần về thăm quê hương Đức Phật tôi đều phải ít nhất một lần ghé qua Ramgram. Đấy là nơi lưu giữ Xá Lợi nguyên thủy (Sàrìradhàtu) của Đức Phật Thích-ca và hầu như chưa hề bị xâm phạm cho đến ngày nay. Điều đó cũng có nghĩa là: đấy là nơi lưu giữ số lượng nhiều nhất Xá Lợi Phật Thích-ca trên thế giới cho đến ngày nay.
Ramgram, gọi đầy đủ phải là Ramagrama, là một địa danh quan trọng và nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo cũng như lịch sử họ Sakya (Thích-ca). Xin được nhắc lại một chút lịch sử của vương quốc này gắn liền với lịch sử gia tộc Sakya.
  Toàn bộ Tư liệu Phật giáo từ Lalitvistara viết tay ở Thung Lũng Kathmandu hoặc Đại sử Mahavamsa ở Sri Lanka, hoặc Phật Sử tiếng Tây tạng, bao gồm cả Dhammapada (Kinh Pháp Cú), Jatakas (Chuyện Tiền Thân Phật), Putakas và Tripitakas  đều kể cùng một câu chuyện với tên các nhân vật phát âm hơi khác do giọng địa phương:

     …Vua Okkaka của Kosala mất vợ Hasta, ngưới có cùng với ông 4 con trai 5 con gái. Nhà vua tấn phong một vương phi xinh đẹp, trẻ tuổi tên Amba lên làm hoàng hậu. Bà này sinh cho ông một đứa con trai tên Jayantu. Nhà vua già vì quá yêu bà vợ trẻ và đứa con trai mới đã không từ chối được yêu cầu cùa bà này tấn phong cho Jayantu làm người kế vị ngai vàng.
    Sau phút bốc đồng, lòng tràn đầy hối hận, Okaka gọi các con của bà vợ trước đến và bảo:
  “Này các con, ta đã cho đi một cách thiếu suy nghĩ vương quốc thực sự thuộc về các con. Em trai Jayantu của các con sẽ kế vị ta. Hãy lấy bất cứ của cải nào, ngoại trừ 5 món biểu tượng cho vương quyền [kiếm báu, giày báu, lọng hoàng gia, vương miện, phất trần của vua – chú thích của NP]và mang theo số người các con cần. Hãy đi đến một nơi nào đó nơi các con có thể dựng nên chốn nương thân.”
    Okkaka khóc, hôn các con và tiễn chúng ra đi với một trái tim tan nát.
    Những hoàng tử và công chúa trẻ đi về phía Bắc hướng có những dãy núi tuyết hùng vĩ của Himalaya. Sau một chặng đường dài, họ đến một khu rừng Sal [sa-la theo phiên âm Hán Việt] nơi  Rishi (ẨN SĨ) Kapila đang thiền toạ bên bờ một con sông. Rishi Kapila chính là một tiền kiếp của Phật Thích-ca trong tương lai.
    Hiểu rõ tình cảnh của họ và tiên đoán được tương lai của chúng, Rishi Kapila bảo họ dừng lại đấy và xây dựng quốc gia của riêng họ. Thành đô đấy chính là Kapilavastu [Ca-Tì-La-Vệ] sau này, được đặt tên theo vị ẩn sĩ Kapila để vinh danh ông.
   Vì là dòng dõi Okkaka, các hoàng tử và công chúa của Kosala không thể kết hôn với hoàng gia các nước thấp kém hơn chung quanh, họ phải kết hôn với anh chị em ruột của mình [đây là tập tục của Ấn Độ cổ đại] để bảo toàn dòng máu tinh khiết của gia tộc. Người chị cả được tấn phong làm Mẫu hậu, còn lại 4 anh em trai cưới chính 4 cô em gái. Mỗi cặp hạ sinh 8 con trai và 8 con gái. Đấy là khởi đầu cho vương tộc Sakya [ tên này cũng có thể đến từ tên cây Sal, mà những rừng Sal rậm rạp chính là đặc điểm của vương quốc mới).
Một thời gian sau, người chị cả mắc bệnh phong. Cô từ bỏ hoàng gia và một mình đi đến một khu vực hoang vu ở phía Đông Bắc Kapilavastu dự định sống nốt những ngày còn lại của đời mình trong cô độc. Tình cờ, khu rừng ấy cũng chính là nơi trú ẩn của Rama, quốc vương Banaras [Ba-La-Nại], người cũng bị bệnh phong và từ bỏ vương quốc của mình để sống ẩn dật. Đồng bệnh tương lân, Rama hướng dẫn cô toạ thiền dưới một gốc cây cổ thụ KOLAN kỳ lạ mà ông nhận thấy nó có năng lực chữa khỏi bệnh phong cho ông. Sau khi cả hai đã lành bệnh, họ thành hôn và lập nên vương quốc mới tên là KOLYA [đặt tên theo cây thần KOLAN] với thủ đô là DEVADAHA [Thành phố thần linh] và một trung tâm thờ phượng được đặt tên theo người sáng lập: RAMAGRAMA – Thành Phố Rama. Từ đấy hai Gia tộc Sakya ở Kapilavastu và Kolya ở Devadaha truyền đời kết thông gia với nhau.
CÂY THẦN KOLAN TRÊN QUÊ MẸ ĐỨC PHẬT THICH-CA NGÀY NAY

Ta có thể thấy rằng, đến thời Đức Phật Thích-ca, Kapilavastu chính là quê cha và Devadaha [cộng với Ramagrama] chính là quê mẹ của Ngài. Hai thủ đô cách nhau gần 100km mà điểm giữa của hai vương quốc chính là Khu Vườn Lumbini nổi tiếng.

II – SỰ PHÂN CHIA XÁ-LỢI CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH-CA SAU KHI NGÀI NHẬP NIẾT BÀN
Xin trích dẫn nơi đây chương PAÑCAVĪSATIMO GOTAMABUDDHAVAṂSO [LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT GOTAMA] từ BUDDHAVAMSA [Phật sử] trong Tạng Kinh thuộc Tiểu Bộ, nguồn Pali Tạng:
  Mahāgotamo jinavaro  - kusināramhi nibbuto
dhātuvitthārikaṃ āsi  - tesu tesu padesato.
[Đấng Chiến Thắng cao quý Gotama vĩ đại đã Niết Bàn tại Kusinārā. Đã có sự phân tán xá-lợi từ xứ sở ấy đến khắp các nơi.]
 Eko ajātasattussa  - eko vesāliyā pure
eko kapilavatthusmiṃ -   - eko ca allakappake.
[Một phần thuộc về (đức vua) Ajātasattu. Một phần ở thành Vesālī. Một phần ở thành Kapilavatthu. Và một phần dành cho người dân ở Allakappa.]
 Eko ca rāmagāmamhi  - eko ca veṭṭhadīpake
eko pāveyyake malle  - eko ca kosinārake.
[Và một phần ở Rāmagāma. Và một phần dành cho người dân ở Veṭṭhadīpa. Một phần dành cho người dân Malla ở Pāvā . Và một phần dành cho người dân ở Kusinārā.]
 Tumbhassa thūpaṃ kāresi  - brāhmaṇo doṇasavhayo
aṅgārathūpaṃ kāresuṃ  - moriyā tuṭṭhamānasā.
[Bà-la-môn tên Doṇa đã xây dựng ngôi bảo tháp cho bình đựng (xá-lợi). Những người Moriya với tâm hoan hỷ đã xây dựng ngôi bảo tháp thờ tro.]
 Aṭṭha sārīrikā thūpā  - navamo tumbhacetiyo
aṅgārathūpo dasamo  - tadāyeva patiṭṭhito.
[Chính vào thời ấy, có tám ngôi bảo tháp (thờ) xá-lợi, ngôi bảo tháp của bình đựng (xá-lợi) là thứ chín, ngôi bảo tháp thờ tro là thứ mười đã được thiết lập.]
           Chúng ta có thể thấy rằng: nguyên thuỷ có 8 bảo tháp thờ xá-lợi Phật Thích-ca, một bảo tháp thờ tro và một bảo tháp thờ chiếc bình dùng để phân chia xá-lợi.
        Gia tộc Kolya bên ngoại của Đức Phật Thích-ca đã xây một bảo tháp tại Ramagrama để thờ phượng 1/8 phần xá-lợi quý giá được chia cho họ. Tuy nhiên, thế sự thăng trầm, không lâu sau đó vương quốc Kolya bị xoá sổ, vương tộc Kolya tản mác khắp bốn phương trời, một phần di cư lên Thung lũng Kathmandu và sau này trở thành họ Shrestha [nghĩa là Ưu tú]. Kinh thành Devadaha cũng như Ramagrama trở thành hoang phế giống như Kapilavastu. Duy có một điểm đặc biệt là tuy vương quốc Kolya đã bị tàn lụi nhưng Bảo tháp Ramagrama vẫn được sùng kính, trở thành một trung tâm hành hương và nổi tiếng khắp cả Ấn Độ đến mức được chạm khắc lên một phù điêu ở bảo tháp Sanchi vùng trung Ấn Độ vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên.
      Khi Đại Đế Asoka [A-Dục] cho xây dựng 84,000 bảo tháp mới để hoằng pháp, Ngài lần lượt khai quật các bảo tháp nguyên thuỷ thờ xá-lợi Phật Thích-ca để thu thập xá-lợi nhằm chia cho các bảo tháp mới.
    Sau khi đã thu thập thành công xá-lợi từ 7 bảo tháp, cuối cùng Asoka với sự tháp tùng của Thầy ông là Ngài Upagupta đã tìm đến Ramagrama vào thời điểm hơn hai trăm năm trước khi Jesus Christ ra đời. Tất cả các nguồn sử liệu bao gồm cả hồi ký của Ngài Pháp Hiển và Huyền Trang đều ghi lại câu chuyện diễn ra sau đây khi Asoka đến bảo tháp Ramagrama:
       Ngày xưa sau khi đức Như Lai nhập diệt, Vua của nước nầy [Kolya] đến phân chia Xá Lợi mang về nước của mình rồi ra sức tôn tạo kiến thiết nên. Đây là nơi rất linh thiêng, có ánh sáng phát ra từ Tháp. Bên cạnh Bảo Tháp có một ao nước trong. Một con rồng [Naga] ngụ tại đây để bảo vệ và thờ phượng bảo tháp. Vua Asoka đã kiến tạo nên các Bảo Tháp mới. Bảy nước đã xây dựng xong rồi bắt đầu đến nước nầy muốn thu thập xá-lợi từ Bảo Tháp, nhưng con rồng ở hồ nầy đã biến thành một Bà La Môn đứng cúi đầu trước con voi của vua Asoka mà nói: Đại Vương có tấm thịnh tình hoằng dương Phật Pháp là một ruộng phước rất lớn, xin thỉnh đại vương giáng lâm nơi tệ xá của tôi. Vua hỏi: Nhà của ngươi cách đây xa gần? Bà La Môn đáp: Tôi là vua rồng[Nagaraja, về chuyện phiên dịch Naga =rồng và Nagaraja = Long vương cũng như Naga là ai – người hay rắn, rồng xin được có một bài viết riêng] của hồ nầy, thấy đại vương muốn xây dựng nơi phước đức nên đến thỉnh mời. Vua thọ nhận sự thỉnh mời mà đi vào Long cung, ngồi chờ một hồi lâu, rồng tiến đến nói: Tôi thọ ác nghiệp nên làm thân rồng nầy. Nay muốn cúng dường xá lợi để được tiêu tội, nên mời vua đến đây để mà đảnh lễ. Vua Asoka nghe thấy xong liền vui vẻ mà nói: Mọi sự cúng dường không phải chỉ của người trong nhân gian. Vua Asoka tự nghĩ chính mình cúng dường xá-lợi cũng không thể chu đáo và trang nghiêm hơn vua rồng nên lui về mà chẳng khai phát và sau khi đi khỏi ao rồi, chỗ nầy vẫn còn nguyên như cũ…
  Như thế tất cả các nguồn sử liệu đều thống nhất ở một điểm: bảo tháp Ramagrama thờ phượng xá-lợi nguyên thuỷ của Đức Phật Thích-ca đã không bị khai quật bởi Đại đế Asoka.

   Tuy nhiên, liệu Ramagrama có còn lưu giữ toàn vẹn phần xá-lợi nguyên thuỷ của Đức Phật Thích-ca sau thời vị hoàng đế vĩ đại nhất lịch sử Ấn Độ? Phần 2 của bài này về Các ghi nhận dọc dài lịch sử và cuộc khảo cổ mới nhất tại Nepal sẽ cho chúng ta biết điều đó.
        (Còn tiếp)
                                                                                Nguyễn Phú
                                                                Mùa Phật Đản thứ 2556 - Tháng 05/2012

4 tháng 5, 2012

Ý NGHĨA CỦA LÁ CỜ PHẬT GIÁO

NHÂN NGÀY PHẬT ĐẢN NĂM 2012

   (Bài của tác giả Minh Đức - Mình không tìm được link gốc anh chị nào biết được xin chỉ cho mình xin cám ơn rất nhiều, bài này copy từ một blog khác.)



http://suoinguontinhthuong.vn/UserFiles/image/cophatgiao.gif


I. NGUỒN GỐC: Người phác họa ra lá cờ Phật Giáo Thế Giới là ông Henry Steel Olcott, sinh ngày 2-8-1832 tại New Jersey, Hoa Kỳ và mất ngày 17-2-1907 tại Adgar, Ấn Độ. 


Ông nguyên là Đại Tá Hải Quân của Quân Đội Hoa Kỳ. Khoảng năm 1875, ông chưa hề học hỏi về giáo lý nhà Phật, nhưng khi cơ duyên đã tới, ông là phóng viên của tờ báo The New-York Daily Graphic, đã giao cho ông nhiệm vụ gặp một phụ nữ người Nga tên là Helena Petrovna Blavatsky (1831-1891), để viết bài về trường hợp bà nầy có những sự kiện huyền bí. Tại nông trại của Eddys ở New-York, hai người đã gặp nhau, từ đó bà Blavatsky đã hướng dẫn ông trên con đường đạo. 

Bà H.P. Blavatsky, ông H.S. Olcott, ông W. Q. Judge là những người đã thành lập Hội Thông Thiên Học Mỹ Quốc ngày 17-11-1875, nay trở thành Hội Thông Thiên Học Quốc Tế, có 60 nước hội viên và trụ sở đặt tại Adgar, Ấn Độ. 

Ông có công lớn nhất trong công cuộc chấn hưng Phật Giáo Tích Lan, từ đó nhà Phật học uyên thâm Anaragika Dharmapala người Tích Lan, môn đệ của Olcott, đã khôi phục nền Phật Giáo Ấn Độ ngày 21-1-1891, và cũng từ đó dần dần Phật Giáo truyền bá sang phương Tây, rồi lan tràn khắp thế giới. 

Ông và bà Blavatsky thọ trì tam quy, ngũ giới với Thượng Tọa Bulatgama tại chùa Wijayananda có sự hiện diện của hàng ngàn chư Tăng, Ni, Phật Tử và gây xúc động mạnh mẻ cho những Phật Tử đã chứng kiến, vì đây là lần đầu tiên Giáo Hội Tăng Già Tích Lan làm lễ quy y cho hai người Phật Tử Âu Mỹ. 

Sự nghiệp truyền bá và chấn hưng Phật Giáo của ông không thể nói hết trong khuôn khổ bài nầy. Ông đã tổ chức những trường học Phật Giáo khắp xứ sở Tích Lan, từ thành thị tới thôn quê hẻo lánh. 

Số trường học lúc ban đầu chỉ có 46 trường (năm 1897) và 6 năm sau (1903), số trường học đã lên đến 174 trường, và đến năm 1940 đã có 429 trường, trong đó có 12 Trường Trung học được chính phủ tài trợ . Không chỉ riêng ở Tích Lan, ông còn vận động để mở các trường học Phật Giáo ở các quốc gia khác như Nhật Bản, Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ. 

Năm 1889, ông cùng Thượng Tọa Susmangala, Tích Lan, phỏng theo sáu mầu hào quang của Đức Phật (xanh đậm, vàng, đỏ, trắng, cam và mầu tổng hợp của năm mầu này), đã phác họa ra mẫu cờ Phật Giáo. 

Về ý nghĩa, ông phát biểu như sau : "Nó có thể được các quốc gia Phật Giáo chấp nhận như một biểu tượng quốc tế cho tín ngưỡng của họ, giống như cây thánh giá đối với tín đồ Thiên chúa giáo ." 

Lá cờ này được Tích Lan công nhận và treo tại các chùa ở xứ này trong ngày lễ Phật Đản từ năm 1889, và 61 năm sau, tại Đại hội Phật Giáo Thế Giới lần đầu tiên, tổ chức tại Colombo, thủ đô Tích Lan, từ ngày 25-5-1950 đến 8-6-1950 có 26 nước tham dự (1), phái đoàn Phật Giáo Việt Nam do Thượng Tọa Tố Liên, Trụ trì chùa Quán Sứ Hà Nội làm đại biểu (2), Hội nghị đã thành lập Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới (The World Fellowship of Buddhists), và chọn lá cờ Phật Giáo Tích Lan làm cờ Phật Giáo Thế Giới. 

Đến ngày 6-5-1951, tại chùa Từ Đàm, cố đô Huế, một Đại Hội Phật Giáo ba miền Bắc Trung Nam, gồm 51 đại biểu Tăng già và cư sĩ, sau 4 ngày họp, đã thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Trong dịp nầy, Thượng Tọa Tố Liên đã tặng Đại Hội lá cờ Phật Giáo Thế Giới, và đại hội đã chấp nhận lá cờ nầy cũng là cờ Phật Giáo Việt Nam

Bằng một tâm hồn thiết tha với Đạo Pháp, ròng rã suốt 38 năm, Phật tử Henry Steel Olcott đã dùng quãng đời quí báu của mình, để phục vụ tha nhân và ông mất ngày 17-2-1907 tại Adgar, quê hương Đức Phật. Lúc đó ông 75 tuổi. 


II. Ý NGHĨA CỦA LÀ CỜ PHẬT GIÁO
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của PhậtTử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình của mọi người con Phật . 

Ngoài ra, cờ Phật Giáo còn có ý nghĩa cắt bỏ quan niệm cố chấp các ranh giới địa phương, gia tăng niềm hăng hái đoàn kết để phụng sự cho Đạo Pháp và dân tộc. 

Năm sắc theo chiều dọc : Xanh đậm, vàng, đỏ, trắng, cam, tượng trưng cho hào quang chư Phật. 

Năm sắc theo chiều ngang ( chiếm diện tích 1/6 lá cờ ) là mầu tổng hợp tượng trưng cho ánh sáng hào quang chư Phật. Ý nghĩa của màu sắc phân biệt là : 

1.- Xanh đậm : Tượng trưng cho Định căn. Màu xanh tượng trưng cho sự rộng lớn, sáng suốt . 

2.- Vàng lợt : Tượng trưng cho Niệm căn, vì có Chánh Niệm mới sanh Định và phát Huệ. 

3.- Đỏ : Tượng trưng cho Tinh Tấn căn. Có tinh tấn mới khắc phục được mọi trở ngại, nghịch cảnh . 

4.- Trắng : Tượng trưng cho Tín căn, niềm tin không lay chuyển, và có tín căn là có Nhân Duyên với chư Phật và nguồn gốc sanh ra muôn hạnh lành. 

5.- Da cam : Tượng trưng cho Huệ căn. Khi có Tín, Tấn, Niệm, Định đầy đủ thì Tuệ sẽ phát sanh. 

6.- Màu tổng hợp : Tượng trưng cho tinh thần đoàn kết của Phật giáo đồ trên toàn thế giới. 


II. KẾT LUẬN:
Là Phật Tử, chúng ta luôn luôn tôn trọng và bảo vệ lá cờ Phật Giáo, vì trên hết, nó tượng trưng cho Phật Giáo, và cho tinh thần đoàn kết, bất phân biệt của tín đồ Phật Giáo trên toàn thế giới . 


Ghi chú :
(1) 26 nước tham dự Đại Hội và trở nên Hội viên sáng lập Hội Phật Giáo Liên Hữu Thế Giới là : Anh, Ấn Độ, Bhutan, Đức, Hawai, Hong Kong, Kampuchea, Lào, Mã Lai, Miến Điện, Mỹ, Na Uy, Nam Dương, Nhật Bản, Nepal, Pháp, Phi Luật Tân, Sikkim, Tân Gia Ba, Tây Tạng, Thái Lan, Thụy Điển, Tích Lan, Triều Tiên, Trung Hoa và Việt Nam


(2) Phái đoàn Việt Nam chỉ có 2 người: Thượng Tọa Tố Liên -- đại biểu chánh thức, và ông Phạm Chữ -- công chức Bộ Ngoại Giao Quốc Gia Việt Nam, tháp tùng theo làm Thông dịch viên. 
Minh Đức

27 tháng 3, 2012

TỪ BOMBAY ĐẾN MUMBAI

-->
INDIA - DỌC ĐƯỜNG GIÓ BỤI

TỪ BOMBAY ĐẾN MUMBAI

-->
Hầu như mỗi địa danh nổi tiếng của India đều có một nickname. Có thể chính là tuyệt chiêu của ngành du lịch India, có thể do giang hồ đặt ra, và tất cả các nickname đều rất chính xác và đáng yêu. Madya Pradesh – Heart of India (Trái tim của India) không chỉ vì vị trí trung tâm của bang này trên bản đồ India mà còn vì các kiến trúc và điêu khắc đẫm chất yêu đương khắp mọi nơi trong bang. Odissa – Soul of India, Hồn Ấn.

   Năm 2010 , ngành du lịch India quảng bá rất thành công với slogan “India-Incredible”. Và thành phố thể hiện rõ nhất sự lạ  thường, không thể tin được đó của India chính là Mumbai. Nơi đây triệu phú – crorepatis - nhiều như người đánh cá. Nghệ sĩ nhiều như gangster xã hội đen. Nơi đây có khu rác thải lớn nhất thế giới và cũng là nơi toạ lạc ngôi nhà đắt giá của tỷ phú giàu nhất India: Ambani.  
  Nơi đây mọi người sống trong một giấc mơ không bao giờ kết thúc. Người nghèo đổ tới Mumbai tìm cơ hội đổi đời. Nghệ sĩ tìm kiếm vinh quang. Nhà kinh doanh tìm cơ hội tài chính. Và những câu chuyện về các Slumdog Millionaire mới, truyền tụng mỗi ngày ở Dhobai Ghat (*) chỉ càng hun nóng giấc mơ của những người mơ mộng.
 Chính như thế Mumbai có nickname Thành phố của những con người mơ mộng –City of the dreamers.









































-->
 Nếu như New Delhi – vũ trường chính trị -  là “bộ não” của India thì Mumbai – thủ đô tài chính – chính là trái tim của đất nước đông dân thứ hai trên thế giới.

  Vùng đất này thuộc về những Sultan Hồi giáo cho đến năm 1534 thì bị “nhượng” cho Portugal (Bồ Đào Nha) dưới họng súng thần công của những kẻ đi chinh phục thuộc địa. Chủ nhân mới của vùng đất duyên hải này đặt tên cho nó là Bom Bahai. Và hơn 100 năm sau, chính xác là năm 1661, vua Bồ Đào Nha tặng cho vua nước Anh Charles II như sính lễ hồi môn của con gái là công chúa Catherine of Braganza .
    Chính phủ Anh vào năm 1668 lại nhượng quyền cho Công ty Đông Ấn với cái giá bèo 10 bảng Anh/ năm. Người Anh chính thức gọi vùng đất này là Bombay từ cuối thế kỷ 17 và phát triển nó thành một hải cảng thương mại.

  Di sản thực dân còn tồn tại cho đến thế kỷ 21 tại thành phố này chính là những kiến trúc Tây Phương. Dựa vào cái Walking Tour từ “bảo bối của dân phượt”  Lonely Planet tôi thả bộ dưới cái nóng 40 độ C theo ngẫu hứng riêng mình vòng quanh khu trung tâm thành phố biển.






































(Còn tiếp)