20 tháng 3, 2011

LÁ THƯ NEPAL 1-2-3-4

   Đây là các bài đã đăng trên mục FC Dzui  tại LuckyLuke FC.com (các bài này được biên tập bởi Nhà báo Hữu Thiện) 

Lá thư Nepal: Nơi đây có… “cao bồi” thứ thiệt ở châu Á!


Hình như  chỉ ở Nepal là còn có “cao bồi” thứ thiệt của châu Á, ngay cả ở thế kỷ XXI này. Cỡi ngựa lang thang theo họ trên cao nguyên Mustang sẽ biến giấc mơ tuổi nhỏ, dệt từ những trang Lucky Luke, có ngày sẽ thành sự thật…

Kathmandu, ngày 28/2/2011,
Anh chủ nhiệm rất thân mến,
Cái website Lucky Luke của anh quá tuyệt!
Tôi mê anh chàng cao bồi này từ nhỏ, và hình như nhiễm máu “cao bồi giang hồ” từ bộ truyện tranh này.
Dù là truyện cao bồi nhưng không có máu me, không có chết chóc! Mọi chuyện rồi sẽ kết thúc có hậu như ước mơ bao đời của mọi người”. Đó là một đặc điểm trong bộ Lucky Luke mà tôi rất “kết”.
Nhân vật tôi mê lại là chú ngựa Jolly Jumper độc đáo. Dịp Tết vừa rồi về Pokhara, tôi ngụ tại một nông trại thật dễ thương của một gia đình nọ ở địa phương. Trại này đang nuôi tám con ngựa. Dù nghèo nhưng họ lại cưu mang hơn mười trẻ mồ côi trong vùng, có em nay đã vào đại học.
Ở đây hơn mười ngày, ký ức tuổi thơ hiện về: nhớ trang trại ngày xưa của ba tôi, với cuộc sống bình lặng của thôn quê chân chất, với thiên nhiên hiền hoà, hồ nước đẹp như tranh vẽ, rừng thông tĩnh mịch,… Và vì vậy, hình như đang sống lại cái ước mơ hồi nhỏ vẫn mơ được cỡi ngựa lang thang như các chàng cao bồi.
Dịp may bất ngờ đến: mục dân Mustang mang ngựa từ cao nguyên Mustang xuống Pokhara đế tránh rét và bán. Vậy là tôi mua một con ngựa Mustang trắng, giống ngựa thuần chủng nổi tiếng của cao nguyên Mustang ở Nepal. Chú ngựa này mới ba tuổi, giá chỉ 2.000USD. Tôi gọi chú là Arun (tên thần gió trong thần thoại Ấn Độ, mà dịch nôm theo tiếng Anh bồi là Anh chàng chạy (run) nhanh…). Rồi tôi gởi Arun lại, nhờ gia đình Gautam chăm sóc. Tiền thu được từ việc cho du khách thuê (20USD/giờ) sẽ chi phí cho chính cuộc sống của Arun, một phần dùng vào việc bảo trợ trẻ mồ côi ở địa phương. Còn khi nào có thời gian về Pokhara, tôi sẽ có ngựa cỡi. Vậy là một công, ba-bốn việc. Khoái nhất là sở hữu một con ngựa trắng thuần chủng (việc mà ngay cả cao bồi thứ thiệt ở Viễn Tây ngày xưa cũng khó có cơ hội… hì hì). Thế nào rồi tôi cũng sẽ cỡi ngựa lang thang trên rừng núi vùng Himalaya, giữa những cánh rừng rực rỡ hoa đỗ quyên,…

Tác giả Nguyễn Phú bên chú ngựa Arun của mình.

Lại ước mơ tiếp: thế nào cũng sẽ có dịp theo những đoàn “cao bồi” thứ thiệt của thế kỷ XXI (mục dân Mustang nuôi ngựa, trâu yak, hàng năm mang những đoàn hàng trăm con ngựa giống, hoặc dắt hàng đoàn trâu yak thồ muối từ những hồ nước mặn trên cao nguyên, mang xuống bán ở miền xuôi). Lang thang lên cao nguyên Mustang 4.000m trên mực nước biển – giấc mơ tuổi nhỏ dệt từ những trang Lucky Luke chắc chắn sẽ có ngày thành sự thật…

Ngựa Mustang ở Nepal

Cỡi ngựa Mustang bản địa khi du lịch ở cao nguyên Mustang mới là… sành điệu! Từ năm 1992, muốn vào vùng Thượng Mustang ở Nepal, du khách nước ngoài cần có một giấy phép đặc biệt, và trả chi phí 50USD/ngày/người. Mustang (tiếng Tây Tạng là Mun Tan, có nghĩa là đồng bằng phì nhiêu) xưa là Vương quốc Lo, nay là một huyện của nước Nepal, nằm trên một cao nguyên ở trung phần phía Bắc Nepal, giáp với cao nguyên Tây Tạng thuộc Trung Quốc. 

Hình như chỉ  ở Nepal là còn có “cao bồi” thứ thiệt của châu Á (“cao bồi” Mông Cổ đã “tuyệt chủng” theo như Tô-tem Sói của Khương Nhung, còn “cao bồi” Tây Tạng giờ cũng bị xoá trắng bởi chính sách Hán hoá, như ở Mông Cổ). Ở những thư sau tham gia cùng Lucky Luke FC, tôi sẽ kể với các fan nhiều hơn về đề tài này: về cuộc sống “cao bồi” – du mục ở Nepal thế kỷ XXI, về ngựa Mustang, trâu Yak, về những chuyến đi du mục ở vùng núi Hymalaya,…
Thú thiệt, tôi chưa tìm hiểu kỹ việc xuất bản bộ Lucky Luke ở Nepal. Tuy vậy, tôi có biết sơ là Lucky Luke, và kể cả Tintin, vốn chẳng xa lạ gì với người Nepal từ các thế hệ 30 tuổi trở lên. Ở Nepal, họ nhập trực tiếp sách tiếng Anh (tiếng Anh là ngôn ngữ rất phổ biến ở đây, kể cả ông Gautam ở nông trại hẻo lánh, mù chữ mà cũng có thể nói được tiếng Anh).
Thời bao cấp ngày trước ở nước mình, có khi nhặt được vài trang truyện tranh này lưu lạc đây đó là tôi đem về giữ, quý như vàng. Giờ đây, bạn đọc Việt Nam hạnh phúc quá, có thể mua được các truyện tranh này dễ dàng, trọn bộ, rồi lại có thêm website tập trung, tâm huyết như vầy,…
NGUYỄN PHÚ
(Kathmandu, Nepal)
Vài nét về tác giả Nguyễn Phú  Nick: Cao bồi NP (Nguyễn Phú, hay… Nepal cũng được).
Tuổi: Cầm tinh con ngựa.
Là người “tham lam”: nghiên cứu lịch sử – văn hoá Nepal và Ấn Độ, hoạ sĩ, và… cầm đầu một công ty xuất nhập khẩu ở Nepal.
Là hoạ sĩ đầu tiên triển lãm tranh tại Lumbini (vườn Lâm Tỳ Ni, ở Nepal, nơi đức Phật Thích Ca đã giáng sinh), vào dịp Phật Đản 2010. Một mình cõi “ngựa sắt” lang thang khắp vùng Himalaya ở Nepal, và để lại “dấu bánh xe “ tại một đỉnh núi cao 3.000m.

Lá thư Nepal 02: Cao bồi vườn “đụng” giang hồ mãi lộ


Sau khi đã “mãi lộ” kha khá, chừng 200 rupee để qua được gần 100 “trạm” suốt dọc đường về Pokhara, “cao bồi vườn miền Tây” mới có cơ hội trêu chọc các tiểu giang hồ mãi lộ Nepal…
Các bạn thân mến,
Tuần rồi, cảm thấy hơi bị stress và cũng nhớ chú ngựa Arun quá nên tôi “trốn việc”, phóng mô-tô xuống Pokhara (thủ đô Kathmandu của Nepal cao 1.200m trên mực nước biển, còn Pokhara cách đấy 210km hướng Tây Nam, trên độ cao 800m).
Quả tình tôi đã đãng trí, vô tình chọn ngày không thích hợp cho việc di chuyển ở Nepal! Vì hôm ấy trúng dịp lễ hội Maha Shivaratri (Đêm vĩ đại của Shiva), là lễ hội quan trọng nhất của tín đồ Hindu theo phái Shaivism (phái này thờ thần Shiva như vị thần tối cao, trong khi phái thứ hai là Vaishavism thì tôn thờ Vishnu như chúa tể vũ trụ) diễn ra vào ngày trăng non của tháng Falgun theo lịch Ấn Độ (khoảng cuối tháng Hai đầu tháng Ba Tây lịch). Hàng triệu tín đồ Hindu từ khắp các nước Ấn Độ, Bangladesh, Malaysia, Mỹ, châu Âu,… hành hương về địa điểm linh thiêng nhất của Hindu giáo ở Nepal: ngôi đền thiêng Pashupati ở Kathmandu.

Thần Shiva nuốt Halahala để cứu muôn loài.

Theo thần thoại Hindu, có một lần thế lực hắc ám đe doạ huỷ diệt vũ trụ dưới hình thức Halahala (chất tối độc trồi lên khi các vị thần khuấy đảo Đại dương Sữa huyền thoại để tìm thuốc trường sinh – hạnh phúc). Với tư cách là Người bảo vệ vũ trụ, thần Shiva đã nuốt chửng chất độc ấy để cứu tất cả muôn loài. Chất độc bỏng cháy cổ họng Shiva và làm thân thể Ngài lạnh giá. Ngài chạy băng trên những ngọn núi tuyết của Himalaya để làm dịu nó đi. Dừng chân tại một cánh rừng, những thợ săn thấy Ngài run rẩy vì lạnh nên đã vội vàng chạy đi gom củi khô, đốt lên một đống lửa to để sưởi ấm cho Ngài.
Ganga (nữ thần sông Hằng) đã mang nguồn nước tinh khiết từ thượng nguồn của các dòng sông để hạ nhiệt cho cổ họng của Shiva. Nhưng vẫn chưa đủ. Cho đến khi mặt trăng chui vào trong mái tóc dài rậm của Shiva giải toả sức nóng đang nung đốt trong đầu và luồng hơi lạnh giá trong cơ thể Ngài. Sau những giây phút “xuống địa ngục rồi lên đỉnh”, Shiva vô cùng phấn khích và bắt đầu hân hoan nhảy múa vũ điệu tandawa nritya.
Chính vì thế, ngày trăng non ấy được gọi là Maha Shivaratri để kỷ niệm ơn cứu mạng của Shiva với muôn loài, còn khu rừng ấy nay là khu vực toạ lạc ngôi đền thiêng Pashupati (tên gọi cổ và nguyên thuỷ của Shiva, nghĩa là Người bảo vệ muôn loài).
Vào ngày Maha Shivaratri, từ sáng sớm trẻ con tụ tập thành từng nhóm ba – bốn, có khi lên đến hàng chục đứa, giăng dây ngang tất cả các con đường, chặn mọi người lại và hò reo “Maha Shivaratri”! Thế là các “khổ chủ” phải móc túi đưa cho chúng tìên lẻ 1-2, cho đến 5-10 rupee. Chỉ khi đó, chúng mới hạ dây cho đi qua. Phong tục chỉ có ở Nepal này thực ra dành cho bọn nhóc gom tiền mua… củi, để tối đến đốt lên, kính mừng Shiva. Tôi thì gọi đó là “Ngày mãi lộ hợp pháp”.

Đền Pashupati trong đêm Maha Shivaratri.

Tác giả trong ngày Maha Shivaratri 2008 ở Kathmandu, hình nền phía sau chính là ngôi đền thiêng Pashupati.

Chạy xe 200km trong ngày mà cứ vài chục mét là có một “trạm mãi lộ” đủ các cỡ giang hồ từ bốn – năm tuổi đến “over teen”, có khi lại có cả nhóm những cô gái tuổi teen, ăn vận trang phục cổ truyền đẹp đẽ, bưng các mâm lễ vật (bột phấn màu đỏ để làm dấu bình an trên trán, hoa…) không cần dây nhưng vẫn được các “khổ chủ” tự nguyện dừng xe lại “nạp tiền mãi lộ”… Thật đúng là một “cơn ác mộng”!
Mặc dù đã chuẩn bị tiền lẻ theo kinh nghiệm mấy năm trước ở thủ đô Kathmandu,  nhưng đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến lễ hội Maha Shivaratri bên ngoài Kathmandu. Có điều tôi thực sự kinh ngạc khi thấy mọi người, từ tài xế xe tải nặng đến xe công, xe gia đình, đều không bực bội khi bị mấy chú nhóc sáu – bảy tuổi chặn đường“trấn lột” mà hình như rất tự nguyện dừng xe để trả tiền cho tụi nhóc. Nepal vẫn còn nhiều ẩn số với tôi…
Phần tôi, sau khi đã “mãi lộ” kha khá – chừng 200 rupee, qua gần 100 trạm mãi lộ của giang hồ – thì cảm thấy hơi bị mất thì giờ khi phải dừng xe mỗi 5 phút một lần, Vì vậy,  tôi bắt đầu chơi trò… “cao bồi vườn miền Tây” (miền Tây Nam bộ, hổng phải Viễn Tây bên Hoa Kỳ). Xé rào – vượt trạm… trò này xảy ra hồi thập niên 80 của thế kỷ trước (do chính sách “ngăn sông cấm chợ”, hàng hoá không thể lưu thông, người nhà ở quê có khi phải mang lậu vài ký gạo, đường, thịt heo để tiếp tế cho bà con sống trên thành phố,…). Tức là cứ nhác thấy xa xa các chú nhóc dàn hàng giăng dây là tôi bóp ly hợp, nẹt ga doạ các chú, làm như không giảm tốc độ… Con ngựa sắt của tôi đã “độ” lại cặp pô khủng lấy từ Moto Bullet của Anh, tiếng gầm rất “khủng bố” (đến nỗi hàng xóm cứ gọi nó là “Helicopter” – trực thăng). Coi “hung hăng” vậy chứ các tiểu giang hồ mãi lộ khá nhát gan, hễ bị doạ là chạy té tát khỏi đường đi, dây nhợ quăng lỏng chỏng… Nhưng rồi tất cả cùng cười xoà, vì ai cũng cho là trò vui… “Trấn lột” cũng vui, mà “vượt trạm” cũng vui!
Tối ấy, tôi dạo quanh thành phố Pokhara. Đám thanh niên đã vác những súc gỗ to dựng lên những đống củi lớn ở khắp các nơi. Màn đêm buông xuống là cuộc vui náo nhiệt bắt đầu… Lửa bắt đầu đốt lên, mọi người quậy tưng bất kể tuổi tác: hò hét vui vẻ, hát ca vang trời, nhảy múa hỗn độn… Thỉnh thoảng có tiếng “pháo tép” vang lên, khi mấy chàng trai trẻ hơ các cây mía tươi trên ngọn lửa rồi quật hết sức xuống nền đất, làm thân mía nổ vang như pháo…

Các ông đạo ở Pashupati trong ngày Maha Shivaratri.

Ở Pashupati – Kathmandu, đêm ấy là đêm không ngủ. Vào chập tối, tổng thống và thủ tướng Nepal (trước đây là chính nhà vua và toàn bộ hoàng tộc) đi đến ngôi đền thiêng để chiêm bái Shivalinga và cầu nguyện cho đất nước. Trên các sườn đồi và rừng cây xung quanh ngôi đền, hàng ngàn Sadhus (ẩn sĩ khổ hạnh của Hindu giáo, tiếng miền Nam gọi là Ông Đạo) gần như loã thể, mình trát đầy tro, mặt bôi vẽ các loại phẩm màu, tóc dài quấn quanh đầu ngồi bên các đống lửa hút cần sa trong các ống vố bằng đất (theo phong tục Hindu, cần sa là loại thuốc hút ưa thích của… Shiva, và theo luật bất thành văn hiện nay, sau khi chính quyền cấm trồng và sử dụng cần sa, thì chỉ có các Sadhus là được phép sử dụng).
Đêm về khuya, hơi lạnh bắt đầu thấm. Cũng như các thành phố khác của Nepal, Pokhara đi ngủ sớm. Chỉ còn con đường ven hồ Phewa, nơi tập trung các nhà hàng khách sạn cho khách du lịch tứ xứ là còn nhộn nhịp. Tây ba lô (và cả châu Á ba lô) vẫn còn nườm nượp ra vào các quán bar, hay tụ tập bên các đống lửa của người địa phương để “vui ké”, dù có thể chẳng biết đó là ngày lễ gì… Có hề gì, thế giới đã là một ngôi nhà chung, niềm vui kỷ niệm ơn cứu mạng có thể chia sẻ cho nhau, bất kể màu da, quốc tịch, tôn giáo. Chính vì thế, “cao bồi vườn miền Tây” mới có cơ hội trêu chọc các tiểu giang hồ mãi lộ Nepal…
Hẹn thư sau sẽ đưa các bạn “chíp” một anh chàng cao bồi đến từ… Barcelona (Tây Ban Nha). Bật mí xíu xíu: Hắn ta vỗ bụng khoe rằng “Tao, tao cũng khoái… Averell Dalton lắm!”…
Chào thân ái!
CAO BỒI NP
(Kathmandu, Nepal)

 

Lá thư Nepal 03: “Khi nào ta măm?”


Bất ngờ, chàng cao bồi Tây Ban Nha ấy thuở nhỏ lại là một… “Averell Dalton”, và nay vẫn “mê” Averell vì bản chất trẻ con, cách nhìn trẻ con không bao giờ mất ở hắn.
“Namaste!”
Đó là câu chào của người Nepal và người Ấn Độ, với hai tay chắp trước ngực. Đó cũng chính là cách chào nguyên thuỷ của phật tử: “Nam mô”.
Tôi đã về lại Farmhouse, một nông trại nhỏ nằm ven hồ Phewa, ở ngoại ô Pokhara. Vừa gặp tôi, bà Gautam đã hỏi ngay: “Khana khayo?” (ăn cơm chưa?). Đây lại là câu chào thân mật của người Nepal. Nghèo cách mấy, khách đến nhà cũng phải mời cơm cho bằng được.
Nông trại có bốn phòng cho thuê, giá chỉ 5$/ngày. Quá “bèo”, so với giá rẻ nhất 20$/ngày của các khách sạn ở khu bờ hồ. Có lẽ vì vậy mà, khi tới Pokhara, khách du lịch khoái đến khu này mướn phòng. Không chỉ Tây ba lô mà cả khách trung lưu, dù khu này cách xa chợ búa, thiếu tiện nghi. Ngoài giá rẻ, có lẽ còn vì nơi này gần gũi thiên nhiên, thứ mà khách du lịch phương Tây muốn hưởng thụ, chứ không phải tiện nghi. Ngoài ra, nơi này còn là chốn “ăn chơi”. Ăn: cá tươi câu, hoặc lưới, ngay tại hồ; gà thả rong (không phải gà công nghiệp); rau củ hoa trái trực tiếp thu hoạch từ vườn. Chơi: chèo thuyền, dù lượn (paragliding), đạp xe, cỡi ngựa, câu cá, chạy bộ… hay đơn giản là… nằm khểnh giữa bãi cỏ mà ngắm trời, núi, ruộng, hồ, chim, bướm,…
Thoạt tiên, tôi không chú ý đến anh chàng cao kều ấy. Phòng hắn khoá cửa im ỉm suốt ngày, trong khi hắn lang thang đâu đó trong thành phố Pokhara và chỉ về lúc tối mịt. Buổi sáng thứ hai ở nông trại, khi tôi đang đứng vuốt ve chú ngựa Arun của tôi thì hắn cũng xuống chuồng ngựa.

Manuel (Lolo), đến từ Barcelona: "Tớ cũng khoái… ngựa!" (ảnh: Nguyễn Phú)

“Ngựa của bồ hả?” – tay bưng tách cà phê bốc khói, hắn đến cạnh tôi và hỏi. Hắn có gương mặt dễ gây thiện cảm, với nụ cười toe toét phô cả hàm răng thưa ám khói thuốc lá. Mái tóc nâu quăn tít, dài chấm vai, như một gã hippy lạc về từ thập niên 1970.
Tôi gật, và chào hắn: ”Namaste!”
“Manuel, from Spain.” – hắn tự giới thiệu, sau khi tôi nói tên tôi – “Còn bạn bè gọi tớ là Lolo.”
- Sao bồ khoái ngựa? – tôi gợi chuyện.
- À, từ nhỏ, tớ đã mê chuyện cowboy.
- Spain, mà ở vùng nào?
- Barcelona.
- A, Barcelona! Football, Ronaldinho… – tôi bật ra.
- Bồ cũng khoái anh chàng hô đó hả?
- Khoái chứ, khoái cả Don Quixote, cả đấu bò tót và các matador…
Mắt Lolo sáng lên khi nghe tôi nhắc tới những đặc sản quê hương hắn.
Chúng tôi cùng ngồi xuống bậc thềm nhà và trò chuyện như một đôi bạn thân lâu ngày. Anh chàng hút thuốc như ống khói tàu. Mà không hút thuốc đóng trong bao. Vấn – xe – liếm, “sành điệu” như… cao bồi thứ thiệt. Điếu này vừa tàn, đã móc túi lấy gói thuốc rê ra vấn điếu khác. Thêm vài câu nữa thì tôi biết rằng hắn tuổi vừa ngoài ba mươi, đang làm thợ sơn tràng (trồng và khai thác rừng thông) ở… Đan Mạch. Vừa đi bụi ba tháng ở Ấn Độ, hiện làm một tua vài tháng ở Nepal, sau đó trở lại Đan Mạch làm việc tiếp, kiếm tiền để năm sau đi bụi ở… Việt Nam và Campuchia.
- Bồ hút thuốc như… Lucky Luke… – tôi nhận xét với giọng đùa cợt.
- Oh, bồ cũng biết Lucky Luke hả? – hắn trợn tròn mắt, kinh ngạc.
- Biết chứ. Ở Việt Nam cũng có dịch và xuất bản truyện này rồi – tôi hơi tự ái – Bồ đọc truyện này nhiều lắm hả?
- Uh, đọc vài chuyện thôi, chủ yếu là xem phim hoạt hoạ trên tivii…

Averell Dalton tìm việc làm (tranh Lucky Lê Thái Dươong, Q.1, Tp.HCM)

- “Quand est-ce qu’on mange?” – đột nhiên hắn hỏi bằng tiếng Pháp, và khoái chí thấy vẻ mặt ngơ ngác của tôi. “When do we eat?” – hắn hỏi lại bằng tiếng Anh, và ôm bụng cười ngặt nghẽo. “Đó là câu tớ khoái nhất trong phim Lucky Luke… Ở nhà, anh chị tớ gọi tớ là… Averell…” – hắn cười khoái trá.
Mèng ơi! Thì ra hắn đang nhắc tới câu nói nổi tiếng của gã Averell Dalton: “Khi nào ta măm?”
“Tại sao?” – tôi hỏi giữa hai tràng cười.
“Vì hồi nhỏ, tớ rất ham ăn, luôn ăn vụng đồ ăn trong bếp…” – hắn xoa xoa cái bụng của mình – “Vả lại, tớ cũng thích nhất cái gã ngố ấy trong truyện Lucky Luke.”
- Tại sao? – tôi truy tiếp.
- À, hồi nhỏ thì tớ khoái cái ngố, ngây thơ, ham ăn của hắn. Sau này, nghiệm ra rằng bản chất trẻ con, cách nhìn trẻ con không bao giờ mất ở hắn đã làm cho mọi người đều khoái hắn. Averell Dalton cho ta một cái nhìn khác về thế giới, giống như qua tấm gương lồi lõm làm hình ảnh biến dạng đi, làm thế giới đa dạng hơn… Finally, he is a good man (gì thì gì, tóm lại gã là người tốt)…
Ông Gautam và người giúp việc bắt đầu đóng yên ngựa. Đầu tiên lót lên lưng ngựa hai tấm nệm bông, rồi phủ lên đó một tấm thảm Tây Tạng sặc sỡ, dệt từ lông trâu yak (loại thảm này rất bền và mắc: hơn 100USD một tấm). Kế đó mới buộc yên ngựa lên trên.

Buộc yên ngựa theo kiểu Nepal (ảnh Nguyễn Phú)


"Cao bồi" Barcelona cỡi ngựa thăm vùng Himalaya (ảnh Nguyễn Phú)


Ba lô chứa đầy… thuốc rê, giấy vấn, quẹt gaz - những vật bất ly thân của Lolo. (ảnh Nguyễn Phú)


Lolo hút thuốc chẳng kém chi... Lucky Luke thuở xưa! (ảnh Nguyễn Phú)


Cao Bồi NP, tác giả chuyên mục "Lá thư Nepal" trên Lucky Luke FC, cỡi Arun.

Lolo bảo rằng học cỡi ngựa ở đây quá “bèo”, chỉ 100USD cho… một tuần, nếu bên châu Âu thì phải vài ngàn đô-la. Đợt này về lại bên ấy, đã biết cỡi ngựa, Lolo nói thế nào cũng sẽ kiếm một con ngựa đi rong trong rừng thông Đan Mạch… Nghe mà ham…
Chúng tôi leo lên lưng ngựa, bắt đầu làm chuyến đi quanh hồ Phewa.
Mới cỡi ngựa ba ngày mà xem ra Lolo cũng đã khá thành thạo. Phần tôi thì còn sượng lắm, chưa quen với cảm giác di chuyển trên mình ngựa, và cử động của thân thể để điều khiển ngựa. Hoá ra đâu có dễ, dù coi phim thấy các tay cao bồi phóng ngựa như bay, làm đủ trò trên lưng ngựa. Kỹ năng thì phải luyện, chứ không ai mới sinh mà có, kể cả “cao bồi” Mông Cổ… Thêm nữa, nếu muốn ngựa phóng nhanh thì phái thúc gót thật mạnh vào bụng ngựa…Chờiii, làm sao tôi có thể đối xử như vậy với Arun của tôi? Nên tôi cứ lẹt đẹt phía sau ngựa của Gautam và Lolo.
Ba chúng tôi thả ngựa đi từ từ trên con đường nhỏ ven hồ. Mỗi lần có xe hơi là phải nép qua một bên nhường đường. Mà tài xế Nepal rất kiên nhẫn. Lỡ có gặp phải súc vật đứng chắn ngang đường là dừng xe đợi nó đi qua rồi mới đi, không dám húc bừa như các bác tài Việt Nam. Tôi có lần chứng kiến một bác tài chờ hơn 10 phút, trong khi ba con dê nằm nhởn nhơ giữa đường… Yêu mến và chung sống hoà bình với các loài động vật là tánh tốt đã nằm trong máu của dân xứ này, rồi biến hoá thành tín ngưỡng… thờ động vật.
Đang đi, bỗng con ngựa của Lolo giở chứng, không theo sự điều khiển của cao bồi Tây Ban Nha mà cứ lủi xuống đám cỏ xanh mởn, bãi đáp của dân paragliding. Lolo kéo dây cương hết bên này đến bên khác mà nó cứ quay vòng vòng. Bất ngờ, yên ngựa tuột dây, Lolo đổ nghiêng qua một bên, chân mắc trong bàn đạp nên té dập mông huỵch xuống đất. Con ngựa thì mừng rỡ chạy lao ra bờ cỏ ven hồ để… gặm cỏ. Lolo nhà ta ngồi cười méo xẹo: “He is Averell… (nó là Averell)”.

Hãi con ngựa Tango có “máu Averell” quá, gã cao bồi Tây Ban Nha đổi sang cỡi con ngựa Arun của tôi… (ảnh Nguyễn Phú)

Chúng tôi về đến nông trại khi mặt trời đã đứng bóng.
Như thường lệ, bà Gautam chào chúng tôi: “Khana khayo?”.
Cả hai chúng tôi xoa bụng và nói: “When do we eat?”, rồi phá ra cười. Bà chủ nhà há hốc mồm chẳng hiểu gì cả, có lẽ nghĩ rằng hai tay dở hơi này đã hoá rồ sau khi cỡi ngựa giữa trưa nắng. Vậy nên bà vội vàng chạy vô bếp, bưng ra… một bình nước lạnh to tướng…
Chào tạm biệt, và mời các bạn lần sau đến gặp chủ nhân của “Ngôi nhà của những rạng đông” – một đôi vợ chồng mù chữ có cô con gái đang học Y khoa ở… nuớc Anh.
When do we eat! Hê hê…
Cao Bồi NP
(Kathmandu, Nepal)

Lá thư Nepal 04: Lục tung kho báu Aladdin, săn… Lục-kỳ!


Chủ nhật rồi, tôi rảo một vòng các hiệu sách ở Kathmandu (thủ đô của Nepal) để tìm anh bạn cũ, quen thân đã gần 40 năm nay. Bạn hẳn đoán ra: anh ấy chính là kẻ-mà-chẳng-nói-ra-thì-fan-Lucky-đều-biết-đó-là-ai.
CHÂN BƯỚC THEO NHỊP… LẬT TRANG
Hồi đó, tôi học lớp Ba trường tiểu học Phan Thanh Giản ở Trúc Giang, Kiến Hoà (nay là Bến Tre). Từ hồi biết đọc, sách đã trở thành món nghiện của tôi. Còn nhớ cuốn đầu tiên tôi đọc năm lớp Hai không phải là truyện tranh, mà lại là cuộc phiêu lưu Hai vạn dặm dưới đáy biển của thuyền trưởng Nam-bộ (Nemo, hồi xưa sách thường phiên âm danh từ riêng sang âm Hán-Việt). Tôi mê sách tới mức ăn cơm cũng kè kè một cuốn sách trên tay, và thường một bữa ăn kéo dài hàng tiếng đồng hồ vì… đọc sách.
Cũng vì mê sách mà tôi có một kỷ niệm đáng nhớ với anh bạn ấy: chàng cao bồi Lục-kỳ (Lucky Luke, gọi gọn, theo âm Hán-Việt) của chúng ta. Thời đó, mỗi tháng thầy ban khen bảng danh dự cho năm trò đứng đầu lớp. Tháng ấy, khi tôi được bảng vàng danh dự cho hạng nhất trong lớp, ba tôi thưởng tôi một đồng kền 20 đồng (giá trị lớn lắm vào thời đó, với một nhóc tiểu học, vì đi học hàng ngày chỉ có đồng 1 đồng thôi). Ngày hôm sau, sau khi tan trường, tôi phi thẳng đến Thuận Hoà – một trong hai nhà sách lớn nhất của Kiến Hoà lúc ấy, nằm ngay bùng binh trung tâm. Tôi hoa mắt trước những bìa sách đẹp bày trong tủ kiếng, chỉ muốn ôm hết chạy về nhà đọc cho sướng. Nhưng sức người có hạn, 20 đồng tiền thưởng chỉ có thể mua được một cuốn duy nhất mà thôi. Lựa và chọn rất lâu… cuối cùng tôi “nhón” anh chàng cao bồi Lục-kỳ ra khỏi tủ kiếng (không còn nhớ là tựa gì, truyện tranh khi ấy chỉ có bìa in màu, còn các trang ruột in trắng đen trên giấy xấu).

Trong một nhà sách Nepal, truyện tranh được bày trang trọng ngay lối vào của tầng dành cho thiếu nhi (ảnh: Nguyễn Phú) 

Từ tiệm sách về tới nhà tôi chừng 500m, mắt tôi dán vô hình trong sách, chân bước theo nhịp… lật trang. Về tới cửa nhà thì tôi cũng “ngốn” xong cuốn Lục-kỳ nóng hổi dưới trưa nắng. Xui cho tôi, ba tôi ngồi ngay cửa ra vào và đã thấy thằng út của ông vừa đi vừa đọc sách.
Thường thì ông rất hãnh diện khoe với mọi người thằng út mê sách của ông. Tôi vừa bước vào cửa là ông hỏi: “Coi sách gì vậy con?”. Tôi hồn nhiên giơ cái bìa sách về phía ông. Ba tôi thiếu điều té cái đùng ra khỏi ghế khi thấy hình Lục-kỳ nhà ta tay cầm súng, miệng ngậm điếu thuốc choán gần hết cái bìa sách sặc sỡ.
Thời ấy, tiếng cao bồi hàm nghĩa rất xấu, dùng ám chỉ những người có hành vi côn đồ, lưu manh, coi thường luật pháp. Mắng “Đồ cao bồi!” tương đương như đồ mất dạy, lưu manh. Miền Nam có từ “cao bồi vườn”, miền Bắc có từ “cao bồi Phủ Lý” hàm ý khinh miệt kẻ lưu manh nhà quê, chưa đủ “tầm” để thành giang hồ thứ thiệt. Rồi còn có… “tướng cao bồi”… nổi tiếng xấu với những trò ngông, giật gân trong khi đất nước đắm chìm trong loạn lạc…
Quay lại với ba tôi, may mà ông kìm được không xáng cho đứa út cưng cái bạt tay nào. Cao bồi, bắn súng, rồi còn hút thuốc nữa chứ (anh tôi có lần bị trận đòn thê thảm vì bị bắt gặp lén hút thuốc trên… mái nhà). Không cần biết nội dung cuốn sách ra sao, ba tôi quát anh Chín tôi chở tôi bằng xe đạp trở ra tiệm sách để trả lại cuốn sách. Anh tôi (năm đó 17 tuổi, cũng là “tay ghiền” sách có hạng) trên đường đi tấp vào một vỉa hè và ngốn ngấu với tốc độ… Pony Express cuốn truyện tranh của tôi. Xong, anh cười và dặn đi dặn lại rằng: “Mày đừng nói là mày đọc xong rồi nhe!”. Hai anh em vô nhà sách, anh tôi trình bày rất lễ phép rằng thì là em nó còn nhỏ không biết lựa sách, rằng ba tôi sợ nó đọc sách cao bồi rồi hư, bla bla bla… Dĩ nhiên nhà sách không cho chúng tôi trả lại sách. Tuy nhiên, sau khi hỏi và được tôi gật đầu xác nhận chưa đọc cuốn sách, ông chủ tiệm đã tin (hay làm ra vẻ như tin) rằng nhóc tì như tôi không thể ngốn hết cuốn sách trên đường đi. Cuối cùng, ông và anh tôi đi đến giải pháp dung hoà là cho đổi lấy cuốn khác, không phải… truyện cao bồi. Quyền quyết định không phải là tôi nữa, và ông anh của tôi chộp lấy tập mới nhất của bộ Sĩ-Phú (Spirou) đang bày ở mặt tiền nhà sách, bộ truyện anh ghiền và đang sưu tập. Anh giấu cuốn sách dưới vạt áo sau lưng khi về đến nhà, và nói dối ba tôi là đã trả cuốn sách lại rồi. Phần tôi sau đó dĩ nhiên là bị phạt. Nhưng có hề gì, tôi được coi ké bộ Sĩ-Phú của anh tôi và được đổi năm cái máy bay mô hình bằng nhựa cho tập Sĩ-Phú mới nhất ấy…
CHUYỆN “HÀNG SALE” VÀ CÁI BÓNG… LÁNG GIỀNG
Lang thang hôm chủ nhật rồi trong những hiệu sách ở Kathmandu, ký ức ngày xưa ùa về như thác đổ. Tôi cười mà rơm rớm nước mắt khi trông thấy những quyển truyện tranh của tuổi thơ tôi nay in thật đẹp, bày trên các kệ sách. Rồi tôi lần mò lục khắp, từ các kệ sách bên ngoài cho đến kho sách bụi bặm bên trong, để tìm anh bạn cũ Lục-kỳ. Nhưng bói chẳng đâu ra một cuốn Lucky Luke!

Gặp lại ở Kathmandu những bạn cũ của tuổi thơ tôi (ảnh Nguyễn Phú)

Đó là ngạc nhiên lớn nhất của tôi về các nhà sách ở ngay thủ đô của Nepal. Ở đây, bạn có thể tìm thấy nhà sách chuyên đề với những sưu tập khổng lồ về văn hoá, tôn giáo Tây Tạng, Hy Mã Lạp Sơn,… Bạn có thể tìm thấy những hiệu sách cũ cho đổi sách 50% giá bìa sau khi đọc xong, hoặc nhận đổi CD, camera, laptop… lấy sách. Bạn cũng có thể choáng khi vào nhà sách Pilgrims, nơi mà tôi hay gọi đùa là ”kho báu Aladdin”. Đó là một toà nhà lớn ba tầng, đầy ắp sách, đồ lưu niệm, văn hoá phẩm, đồ cổ và… một kho sách hiếm – cổ, có tuổi từ vài chục đến vài trăm năm, giá bét nhất cũng 300USD một cuốn… Bạn có thể tìm thấy các collection Tintin, Astérix, Spirou,… song lại không thể tìm ra Lục-kỳ!
Tôi đã rảo qua hàng trăm kệ sách, lục tung các kho sách, kiểm tra trên màn hình máy tính của các nhà sách. Kể cả tìm đến Phòng sách thiếu nhi – nơi trước đây vốn là dinh thự của một hoàng thân Nepal, nay chuyển đổi thành Thư viện Quốc gia. Kể cả tìm đến thư viện nổi tiếng của hoàng thân Kaiser – người có thú sưu tầm sách và đã sưu tầm được một kho sách khổng lồ đầy giá trị, tới mức cả các học giả nổi tiếng Âu Mỹ cũng tìm tới tham khảo… Vậy mà tôi vẫn chưa thể tìm ra bất kỳ cuốn Lucky Luke nào, mặc dù hầu hết các chủ tiệm, hay thủ thư, đều biết đến bộ sách này.
Theo số liệu của Pilgrims, cách đây ba năm, họ có nhập về lô sách gồm năm tập Lục-kỳ, xuất bản ở… Ấn Độ. Nay, họ đã không còn cuốn Lục-kỳ nào trong nhà sách nữa. Thất vọng, tôi làm lại “cuộc săn” của mình từ dưới đất lên đến tầng áp mái của nhà sách Pilgrims. Cuối cùng, tôi lôi ra được một “anh Lục-kỳ” duy nhất, nằm ngủ quên trong đống sách bán sale (giảm giá 50%). Mừng húm!

Anh bạn Lục-kỳ duy nhất tôi tìm được ở Kathmandu tháng 3/2011 (ảnh Nguyễn Phú)

Đó là tựa Một cuộc phiêu lưu của Lục-kỳ – Gánh xiếc Viễn Tây, do nhà Tara Press xuất bản năm 2007 tại… Ấn Độ. Sách in màu offset trên giấy trắng dầy, rất đẹp, nên giá khá cao: 280 rupee Nepal (tương đương khoảng 80.000 đồng Việt Nam). Thú thật, tôi lấy cuốn đó vì là cuốn Lục-kỳ duy nhất còn lại ở Kathmandu thời điểm này, và vì giá giảm 50%. Có lẽ vì giá bán cũng là một lý do khiến Lucky Luke đã trở lại thị trường Ấn Độ nhưng không tạo được “cơn sốt” như các nhà xuất bản mong đợi.
Theo nghiên cứu của Comicology, một website cho dân ghiền truyện tranh ở Ấn Độ, thị̣ trường truyện tranh ở Ấn trị giá 3.000.000.000 rupee Ấn (khoảng gần một tỷ USD), và sẽ phát triển 40% trong vài năm tới. Không lạ gì khi các nhà xuất bản lao vào cuộc chạy đua tìm kiếm những tựa sách có thể làm nên cơn sốt ở thị trường tiềm năng hơn cả Mỹ, châu Âu, Nhật nhưng chưa được khai thác đúng mức này (Ấn có tròm trèm một tỷ dân, tỷ lệ có học và biết tiếng Anh rất cao; hơn nữa Ấn còn khống chế thị trường các nước Nam Á khác như Nepal, Sri Lanka, Bangladesh, Bhutan). Trong cuộc chạy đua ấy, năm 2007 Tara Press đã thăm dò thị trường bằng sê-ri năm tựa sách của bộ Lucky Luke - anh chàng cao bồi đã nhiều năm vắng bóng trên thị trường Ấn. Đó là các tập The Dashing White Cowboy, The Tenderfoot, Ma Dalton, Jesse James, Western Circus. Thật đáng ngạc nhiên là sau khi xuất bản năm tựa này, Tara Press không ra thêm bất kỳ tựa nào nữa, dù sê-ri Lucky Luke đã bán hết sạch, do bạn đọc Ấn nồng nhiệt đón nhận.
Năm 2008, Lion Comics xuất bản Lucky Luke bằng tiếng… Tamil (một ngôn ngữ phổ thông ở Nam Ấn), và CineBook nhập Lucky Luke bằng tiếng Anh từ châu Âu. Cả hai đều gặt hái kết quả rất tốt, nhờ công marketing của Tara Press trước đó. Theo đà ấy, năm 2009, EuroBooks – chi nhánh Ấn Độ của công ty EuroKids International Limited – đưa ra thị trường 24 tựa Lucky Luke. Trong đó, riêng Lion Comics – bá chủ thị phần truyện tranh tiếng Tamil – cứ đều đều phát hành mỗi tháng một tựa Lucky Luke cho tới nay.

Các ấn bản Lucky Luke khác nhau, xuất bản tại Ấn Độ.

Rõ ràng thị trường xuất bản của Nepal hầu như bị khống chế bởi các nhà xuất bản Ấn. Các nhà xuất bản địa phương chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ, kể cả sách giáo khoa bằng tiếng Nepali cũng in rồi nhập từ Ấn. Không lạ gì thị trường sách của Nepal là cái bóng mờ của Ấn. Nhưng lạ là, mặc dù Lục-kỳ đã trở lại với thị trường Ấn vài năm nay nhưng giới kinh doanh sách ở Nepal không mấy mặn mà với việc nhập Lucky Luke. thậm chí có thể nói là không thèm nhập. Có thể vì giá cao so với túi tiền người Nepal? Có thể do không tương hợp về văn hoá? (Người Nepal không ưa bạo lực, bắn giết… Dù Lục-kỳ không bắn chết ai bao giờ, nhưng tâm lý mà, giống như ba tôi hồi xưa, cứ thấy cao bồi cầm súng là liên tưởng đến bạo lực, chưa cần biết nội dung ra sao.) Trong khi đó, những truyện tranh bạo lực thật sự, kể cả bằng tiếng Nepali do chính hoạ sĩ Nepal vẽ. thì bày đầy trên các kệ sách. Thật là một thiệt thòi cho dân ghiền Lucky Luke ở Nepal!
Thân mến chào các bạn nhân ngày First News mang Lucky Luke trở lại Việt Nam. Chúc các bạn có những chuyến phiêu lưu thú vị cùng Lục-kỳ nói tiếng Việt của chúng ta!
CAO BỒI NP
(Kathmandu, Nepal)

3 tháng 2, 2011

MÙNG MỘT TẾT -I GOT HIGH WITH "DIỀU MÁY"

 MỒNG MỘT TẾT TÂN MÃO Ở POKHARA.
  MỞ HÀNG LẤY NGÀY HI...HI...


CHÚC MỪNG NĂM MỚI!




POKHARA NGÀY MÙNG MỘT TẾT TÂN MÃO VỚI NGỌN NÚI ANNAPURNA-1 NỔI TIẾNG(TÊN THƯỜNG BIẾT ĐẾN LÀ FISH TAIL), ANNAPURNA THEO SANSKRIT NGHĨA LÀ THỊNH VƯỢNG, VẬY CHÚC MỘT NĂM MỚI THỊNH VƯỢNG.




I GOT HIGH WITH "DIỀU MÁY"

Tôi ao ước chuyến bay này đã nhiều năm nhưng mãi mà chưa thực hiện được. Thế rồi bất ngờ làm một chuyến "phượt" đến Pokhara đột xuất tranh thủ mấy ngày rãnh rỗi hiếm hoi và cũng là Tết của riêng tôi ở Nepal (người Nepal ăn Tết của họ vào tháng 9). Háo hức book cho chuyến bay (110 Euro cho 30 phút bay) cả ngày tôi cứ háo hức chờ giờ bay. Rồi cũng bắt đầu...lúc 3 giờ chiều tôi đến sân bay nội địa Pokhara và bắt đầu chuyến phiêu lưu "dựng tóc gáy" trong ngày Mùng Một Tết Tân Mão... 

Cái này không phải là đồ chơi mà là "đồ thiệt". Gọi là Ultraflight Aircraft, xuất xứ từ Nga. Một vật thể lai giữa moto ba bánh và "tam giác lượn", tôi gọi nó là "DIỀU MÁY". Chỉ có kính chắn gió đằng trước còn hai bên trống hoác, thân thì có thể tháo rời với vài con vít, động cơ mini gắn phía sau. Điều khiển bằng....một thanh giằng ngang nối trực tiếp với cánh tam giác sợi tổng hợp bằng....mấy sợi dây cáp. Giờ thì tôi lại nghĩ đó là "đồ chơi" và không tin nó có thể bay được. Nhưng ...tôi thì không bao giờ quay lui sau khi đã xuất phát. 






KHỞI HÀNH.....E...EE.....EEEE..........EEEEEEEEEEE........TAXI RA ĐƯỜNG BĂNG......



CẤT CÁNH.....

Khi "diều máy" đạt vận tốc 80km/h đột nhiên "nó" giật...rùng mình rồi bốc đầu lên....chưa kịp cảm thấy gì thì nhận ra mình ....đã ở trên cao vài trăm mét... hu hu....



Ở trên mặt đất ngắm những ngọn núi tuyết của Himalaya mà ngưỡng mộ. Giờ đây bay về hướng núi tuyết . Chúng lừng lững như có thể chạm tay được....Và có thể cảm thấy những hơi thở băng giá của núi tuyết phả vào mặt.....




NUMBER ONE..... nhưng chân thì ...run....tim thì đập như trống dồn, tai thì ù vì độ cao (9,000m trên mực nước biển , khoảng 8,200m từ bề mặt của Pokhara)...Thật không có cái dại nào giống cái dại này... rớt từ đây xuống chắc chắn là tan xác...vì không có dù...



Bay phía trên Sarangkot - Điểm cao nhất của Thung Lũng Pokhara 2,300m. Ngay phía dưới " diều máy" của chúng tôi là một nhóm dù lượn PARAGLIDING...



Tay quay phim mà người thì ...hãi.  Người chỉ xoay từ bên này qua bên kia để quay video mà chiếc máy bay cũng đảo...kể chi đến gió ù ù với vận tốc 70-80km/h.... chỉ muốn chuyến bay mau kết thúc cho xong....Mỗi khi gió thốc, phi công gồng cứng người kềm thanh giằng, chân đạp lút ga cho động cơ quay hết cỡ..."Diều máy" lảo đảo giữa không trung...Ô giời ôi...


Đến hồ PHEWA



 

Vượt qua hồ PHEWA




Anh chàng chơi Paragliding này "lượn" quá gần làm phi công Oleg cũng phải lượn lên cao....Ú tim!




Lượn qua World Peace Stupa do người Nhật xây dựng.  Dân chúng ở dưới nhìn lên ngưỡng mộ chiếc "diều máy" này lắm. Có biết đâu người trên này chỉ muốn đặt hai chân đang run của mình lên mặt đất...ô hô...





Bắt đầu hạ độ cao khi bay ngang thành phố để về sân bay






Hạ cánh đây....không kềm được ...hú lên khi "diều máy" tiếp đất mượt mà nhờ kỹ năng điêu luyện của viên phi công người Nga- Oleg



Hoàn thành chuyến bay an toàn...leo ra khỏi ghế ngồi mà tim đập, chân run. Lỡ dại lần này, lần sau...có thể trót dại nữa...nhưng bảo đảm là không phải ngày mai, hay tháng tới....hi hi






Sau đấy được cấp một chứng nhận đàng hoàng nhé. 
Thật là một xuất hành tuyệt vời để khởi đầu một năm mới.
HOAN HÔ NĂM MỚI TÂN MÃO, CẤT CÁNH VÀ THÀNH CÔNG!




21 tháng 11, 2010

MẦU NHIỆM


  Cháy nhà. Đấy là tai họa mà không ai muốn gặp phải. Đã cháy nhà , lại còn bị nước lụt nữa thì hết nói.
Thứ Bảy tuần rồi, vì công việc tôi phải ra ngòai lúc 8 giờ sáng. Khởi hành đã có triệu chứng bất tường: cái cản sau của xe moto tự dưng sút ốc kéo lê lết trên đường đi tới chỗ hẹn gặp partners. Người đi đường trố mắt ngạc nhiên, còn tôi thì không biết gì mãi cho tới nơi. Tôi nhặt mấy sợi dây nylon cột sơ nó lại. Rồi đối tác thứ hai trục trặc đến muộn những 1 tiếng đồng hồ. Tôi cảm thấy sốt ruột và lo lắng không hiểu vì sao, và nhiều lần đề nghị dời cuộc gặp sang ngày hôm sau, nhưng anh đối tác thứ nhất không chịu. Mãi đến 9h30 chúng tôi mới có thể đi đến Nagarkot sau khi đón thêm anh chàng luật sư của công ty. Chúng tôi đi đến Training Center để gặp Hiệu trưởng trường Luật của Nepal, người đang chủ trì một seminar quốc tế tại đó, để tham vấn về một vấn đề luật cho công ty của chúng tôi.
   30km đường đèo dốc để đến Nagarkot, một địa điểm nghỉ dưỡng nổi tiếng của Nepal tương tự như Đà Lạt của miền Nam Việt Nam. Chừng 10h thì điện thọai của tôi bắt đầu bị gọi liên tục với những số máy lạ hoắc. Nghĩ rằng đó là của những kẻ đang đe dọa tống tiền tôi vì một thương vụ chúng tôi đang tiến hành với Chính phủ Nepal, tôi lờ đi không bắt máy.
  Đến được Nagarkot lúc 11h thì vị hiệu trưởng kia không thể sắp xếp thời giờ cho chúng tôi được, thế là phải về không. Cả nhóm sau khi về đến Kathmandu thì lại ghé vào một nhà hàng Fast Food . Mãi đến 15h tôi mới bứt ra được để về nhà. Nhưng hỡi ôi.
   Từ xa đã thấy đồ đạc bị vứt chồng đống ra ngòai sân thượng. Ngừng xe thì hàng xóm chạy lại  nói rằng, “Phòng mày cháy rồi!” Tôi lao lên cầu thang. Apartment  của tôi thì tường ám khói đen kịt, sàn ngập ngụa nước là nước. Hàng xóm kể rằng chừng 10h họ thấy khói bốc lên dữ dội từ phòng tôi mà cửa lại khóa nên phá cửa kiếng  và dùng nước tạt vào để dập lửa. Do khói mù mịt không thấy gì nên họ tạt bừa vào rất nhiều nước . Khi lửa tắt thì phá khóa cửa chính và mang ra ngoài mọi thứ. Nhiều người gọi điện cho tôi nhưng tôi không bắt máy (lỗi của tôi, nhưng lúc đó có bắt máy thì mọi chuyện cũng đã rồi).
  Tivi, dàn loa,MP4, microwave,gargets, giường ngủ, mùng mền, quần áo… bị cháy rụi. Máy in màu đời mới kiêm scanner, bị vô nước thấy mà thương. Tuy nhiên mấy thứ đó có thể mua lại được. Sốc nhất là hàng trăm cuốn sách và vài ngàn trang tư liệu bản gốc hoặc photocopy đã bị thiệt hại không cứu chữa được. Tôi đã rất vất vả và tốn kém rất nhiều mới có thể sưu tập được chúng suốt 5 năm qua, từ những hiệu sách cũ, các thư viện lớn và nổi tiếng của Nepal. Có những độc bản viết tay cổ kính, những bản in đã 200-300 năm, có bản photocopy thì giờ không biết nguồn gốc ở đâu để sao chụp lại, thậm chí những sách quý của thư viện quốc gia 4-5 năm trước tôi sao chụp giờ cũng đã bị ăn cắp mất khỏi thư viện rồi. Khối tài liệu khổng lồ về văn hóa và phong tục Nepal sưu tập từ các họa báo trong ngòai Nepal hoặc sách ảnh thì cũng hư hỏng 80% vì lửa và nước. May mà không hiểu vì lý do gì tôi mang theo cái laptop 500GB ổ cứng đã sao lưu dữ liệu gần kín và ổ cứng gắn ngòai cũng chật cứng thêm 500GB tư liệu.
  Theo nhận định của riêng tôi, điện chập mạch và bén lửa vào tấm mền bông, giường ngủ, rồi lan sang mấy thùng carton đựng tài liệu tôi đặt bên dưới  giường ngủ. Cũng may, lửa chưa kịp bén đến mấy chục lít xăng tôi trữ trong phòng (Nepal hay thiếu hụt xăng dầu có khi cả tuần, nên tôi phải trữ xăng để phòng bị) và cái bình gas 15kg. Nếu chúng nổ thì chắc tôi phải tù vì cả tòa nhà sập và có thể có thiệt hại nhân mạng nữa.
  Thọat tiên tôi không nhận thấy nó. Sốc mà. Nhưng ngờ ngợ một cái gì không bình thường trong phòng ngủ của tôi.
   Phải đến ngày hôm sau tôi mới phát hiện ra nó. Điều mầu nhiệm.
  Phật Đản 2010, tôi đã có một triển lãm tranh Phật ngay tại vườn Lumbini (xem “Một Phật Đản không thể nào quên” ngay trong blog này hoặc từ các trang mạng Phật giáo . Trong đó bức đỉnh nhất cũng là chủ đề của cuộc triển lãm là “Ligh of Asia” và bức tôi ưng ý thứ hai là “Quan Thế Âm” theo phong cách Tây tạng trên nền thần chú Om Mani Padme Hum. Tôi đã giữ lại hai bức tranh đó và treo ngay bên trên giường ngủ của tôi. Lửa cháy bắt đầu từ đấy và mạnh bạo nhất cũng từ đấy mà hai bức tranh thì “vô nhiễm”. Bức tranh nhỏ bên cạnh bị cháy rụi mà bức “Quan Thế Âm" chỉ ám có chút xíu khói. Bức “Light of Asia” thì mặc dù cái microwave ngay bên dưới cháy đen thế mà không hề có tý lửa khói nào chạm đến (nhìn dấu vết trên tường thì cảm thấy như có một sức mạnh siêu nhiên đẩy tạt ngọn lửa đi).
   Một chị bạn bác sĩ người Nepal khi nhìn cảnh tượng đó đã thốt lên: “Không thể tưởng tượng được điều đó khi chúng ta ở vào thế kỷ 21. Nhưng giờ thì tôi ‘TIN’.”
  Tôi không có lời để giải thích. Mời các bạn xem hình.






Nguyễn Phú 20/11/2010 Kathmandu

1 tháng 9, 2010

CHUDA KARMA Lễ xả nghiệp-xuất gia, một tục lệ cổ xưa của họ Thích ca




Sau khi vua Vidudabha tiêu diệt dòng họ Thích Ca (Sakya), một phần những người sống sót của dòng họ Sakya đã di cư tới Nepal Mandala (Thung Lũng Kathmandu ngày nay). Trong thời gian cư trú tại Kathmandu, Nepal, tác giả Nguyễn Phú (pháp danh Phước Quý) đã kết thân với nhiều người trong dòng tộc Thích Ca và được dự khan lễ xuất gia, một phong tục cổ truyền của dòng họ Sakya. Xin giới thiệu về lễ Chuda Karma của hậu duệ dòng họ Thích Ca. (Lời giới thiệu của ấn bản Nguyệt San Giác Ngộ -2006)





Tác giả và hai cậu bé Sakya


      Vốn biết tôi đang quan tâm tìm hiểu phong tục và đời sống văn hóa Nepal nên trước đây một tháng, gia đình ông Sarad Kumar Shakya đã mời tôi dự một ngày lễ theo tục lệ cổ truyền của gia tộc. Tôi không ngờ mình có may mắn được dự khán một tục lệ của một dòng họ cổ xưa và nổi tiếng nhất thế giới. Cổ xưa vì họ Shakya chỉ tính từ Đức Phật Thích Ca cũng đã được trên hai mươi lăm thế kỷ. Còn nổi tiếng thì hầu như thế giới đều biết đến dòng họ này qua một nhân vật lịch sử vĩ đại: ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI.
Patan là thành phố cổ nhất của Kathmandu Valley, cũng là thành phố có nhiều người họ Sakya sinh sống. Nơi đây cũng là thành phố có nhiều gia đình theo Phật giáo nhất trong Vương quốc Hindu giáo Nepal, nên được mệnh danh là Thành Phố Phật Giáo (gọi là “thành phố” (city) nhưng thực ra diện tích của Patan chỉ xấp xỉ một phường lớn ờ Saigon ). Tương truyền, vào thời cổ đại, thành phố này được quy hoạch theo hình Bánh Xe Pháp – Dharma Chakra. Khi đi vòng quanh Patan, ta có thể thấy cờ Phật giáo dày đặc trên các nóc nhà, trong các lễ hội của Patan. Tại đây còn có bốn ngôi tháp (stupa) ở bốn góc của thành phố tương truyền được dựng lên bởi Đại đế Phật tử Ashoka (A Dục vương) khi ngài hành hương đến đây.

Patan-Thành Phố Phật giáo

   Ngày lễ này được gọi là “Chuda Karma Puja” - tạm dịch là ngày lễ Xả nghiệp, xả bỏ nghiệp báo trong quá khứ hoặc đơn giản hơn là lễ Xuất gia. Tục lệ này không hẳn là tục lệ Phật giáo, các tín đồ Hindu cũng có lễ Chuda Karma; nhưng riêngvới họ Sakya thì có những nghi thức riêng biệt. Với cả hai tôn giáo, Lễ này là lần cạo tóc đầu tiên dành cho tất cả các bé trai từ bốn tuổi trở lên. Với Hindu, thường thì buổi lễ mang tính gia đình: một vị Brahmin được mời đến nhà đễ làm lễ cho cậu con trai của gia đình; có khi hai ba gia đình làm lễ cùng nhau. Với họ Sakya, họ sống theo từng “bahal” (một cộng đồng vài mươi gia đình Sakya sống quay quần quanh một ngôi chùa riêng trong một khuôn viên khép kín, tất cả các ngôi nhà đều xoay mặt ra một cái sân chung rộng lớn). Tính “cộng hòa” , “tập thể” là một đặc tính của họ Sakya từ thời cổ đại, mọi việc lớn nhỏ đều được mang ra bàn bạc giữa cộng đồng. Chính vì thế các lễ nghi của họ cũng thường là tập thể.



Một Bahal

    Lễ Chuda Karma mà tôi dự khán được các tu sĩ chọn nhằm vào ngày tốt nhất trong tháng sinh của Đức Phật năm nay ( 2550- Phật lịch / 2063-Nepal / 2006-dương lịch), ngày được chọn nhằm ngày 30-4 dương lịch. Trong lễ Chuda Karma này có tất cả hai mươi hai bé trai được xuất gia.
Trước đó một tháng, các gia đình phải đăng ký danh sách, sắm sửa lễ vật, trang phục cho các chú bé. Nghi lễ được diễn ra ở ngôi đền danh tiếng Golden Temple của thành phố cổ Patan (tên chính thức của ngôi đền là Hiranya Varna Mahavihar). Ngôi đền này được xây dựng từ thế kỷ XII bởi Quốc vương Bhaskar Varma (thời kỳ Phật giáo hưng thịnh ở Kathmandu Valley). Golden Temple là một kiệt tác về kiến trúc và nghệ thuật gò đúc kim loại của Nepal. Toàn mặt vách chính (10 x 5m), ngôi đền Quan Âm và tất cả các mái cũng như tượng, phù điêu đều làm bằng đồng thau mạ vàng thật tinh xảo. Riêng khung cửa chính của gian thờ tượng Phật Thích Ca Vàng (Golden Sakya Muni) được đúc bằng bạc ròng (những khung cửa bằng bạc chỉ dành cho những nơi cúng tế của các vị vua Nepal - Pashupatinath ngôi đền thiêng liêng nhất của Hindu giáo Nepal mà Nhà vua Nepal hay cúng tế hiện nay cũng có những khung cửa bằng bạc). 




Golden Temple
     Tôi đến Golden Temple lúc 9 giờ sáng, ở lối vào một vị trong Ban tổ chức trân trọng buộc vào cổ cha mẹ của các chú bé những dây lụa - cha: màu xanh, mẹ: màu vàng. Trong khuôn viên không lớn lắm của ngôi đền, thân nhân của các chú bé đứng ở khắp các hành lang trò chuyện vui vẻ. Tôi tìm gia đình ông Sarad và được dẫn lên lầu. Nơi đó trong một gian phòng kín, lần lượt từng chú bé được các tu sĩ thực hiện các bí tích đầu tiên. Chừng một tiếng đồng hồ sau, chú bé cuối cùng được đưa xuống sân đền.







Gia đình Sarad Kumar Shakya

Các chú bé được sắp ngồi thứ tự theo chiều kim đồng hồ vòng quanh sân đền. Các bà mẹ lúc nào cũng túc trực bên con, vẻ mặt rạng rỡ, hân hoan. Sau khi vị chủ lễ đọc kinh và làm các nghi thức, những người phụ lễ đi vòng quanh xức dầu lên đỉnh đầu các chú bé. Kế tiếp họ bắt đầu cạo tóc của các em. Tóc được cạo nhẵn chỉ chừa lại một lọn nhỏ chừng ngón tay út. Phần nghi thức này là cổ tục của Hindu giáo. Sau đó các em được cởi bỏ hết tất cả quần áo cũ trên người, xối nước cho sạch tóc vụn và choàng một tấm khăn mới tinh lên người. Các chú được đưa trở lên gian phòng kín để thực hiện các nghi lễ đặc biệt của họ Sakya. Tại đây chỏm tóc cuối cùng được vị tu sĩ cắt bỏ và đeo vào đầu các em một vòng đan bằng các dây màu xanh ở giữa trán đính ba hình bầu dục bằng bông gồm ba màu theo ba vòng nhỏ dần vào trong: trắng-xanh-đỏ.









Các Sakya sau khi cạo tóc lần đầu





Các Sakya được ban phước


    Một nhóm bốn vị trưởng lão cao niên nhất của dòng họ Sakya (từ 80 đến trên 90 tuổi) làm tiếp nghi thức ban phước cho các em tại sân đền. Dưới chiếc lọng ngũ sắc, bốn vị trưởng lão đầu đội bốn chiếc mũ miện của vương tộc Sakya trang trí các họa tiết bằng bạc và đồng, đứng ở bốn hướng Đông Tây Nam Bắc nhận các lọ nhỏ bằng đồng trong có nước và lá thơm từ các bà mẹ. Lần lượt từng em bước vào giữa. Vị chủ lễ xướng bài tụng ngắn. Các vị trưởng lão dùng tay phải rảy nước và cùng đặt tay lên đỉnh đầu các em để ban phước. Vị chủ lễ dùng một chiếc vỏ ốc to, cũ kỹ, có xoắn ngược chiều kim đồng hồ (biểu tượng vương quyền thời cổ tại Ấn Độ) tưới nước lên đỉnh đầu các em. Có em bị dội nước lạnh đột ngột khóc ré lên.
Một lần nữa các chú bé lại được đưa lên gian phòng kín. Lần này các chú được làm nghi thức quan trọng nhất của ngày lễ: nghi thức xuất gia. Nghi thức này kéo dài chừng hơn một tiếng đồng hồ. Các bé trai Sakya sau khi xuất gia được vẽ một Mandala màu vàng trên đầu, mặc y màu vàng và nhận tích trượng, bình bát bằng đồng từ các tu sĩ. Các chú xúng xính trong chiếc y vàng, choàng từ vai trái xuống một dải lụa đính hai lá cờ Phật giáo, tay phải cầm bình bát đựng gạo, tay trái cầm tích trượng lần lượt trở xuống sân đền.








Các Sakya sau khi xuất gia

    Phải chờ đợi đến tận 3 giờ chiều, các nghi thức mới bắt đầu tiếp tục. Theo quy định, cho đến nghi thức cuối cùng các chú không được ăn, phụ huynh chỉ được cho các chú uống sữa hoặc nước trái cây. Chờ đợi lâu quá, có chú ngủ ngon lành trong vòng tay mẹ trông thật đáng yêu.
Vị chủ lễ tiếp tục tiến hành cuộc lễ. Ông ngồi xếp bằng trước một bàn thờ, đọc những bài kinh bằng tiếng Phạn và xướng những nghi thức bằng tiếng Nepal để các phụ huynh hướng dẫn các em làm theo. Những nắm gạo, cánh hoa, thực phẩm, nước… lần lượt được vãi tung ra sân đền. Có những chú chim bồ câu dạn dĩ sà xuống ngay bên cạnh các chú bé nhặt những hạt gạo trắng ngần. Sau những bài kinh dài, vị chủ lễ cùng người phụ lễ mang những đôi guốc nhỏ bằng đồng cũ kỹ ra. Họ vẽ trên nền đá xanh của sân đền bảy hình hoa sen, đặt vào giữa mỗi hoa sen một hạt cau tròn trĩnh cùng với chút thực phẩm tượng trưng cho địa cầu. Lần lượt từng em sẽ mang đôi guốc đồng ấy bước bảy bước trên những hoa sen làm vỡ vụn những hạt cau trong khi vị chủ lễ đọc thần chú. Nghi thức này lặp lại tích Đức Phật Thích Ca khi vừa Đản sanh đã bước đi bảy bước làm chấn động địa cầu và thiên giới. Sau khi đi trên các hoa sen, các Sakya vừa xuất gia được đưa vào gian thờ chính để làm lễ trước Phật Thích Ca Mâu Ni với tích tượng và bình bát như là lễ ra mắt.






Bảy bước đi
Sau nghi thức xuất gia, các Sakya nhỏ tuổi được đưa đi vòng quanh các con phố của thành phố cổ sau các vị trưởng lão của họ tộc Thích Ca để trình diện mọi người theo như phong tục. Trở lại Golden Temple, một nghi thức nữa diễn ra trước cổng vào ngôi đền. Hương hoa, đèn, lễ vật, một Mandala được bày trên mặt đất để vị chủ lễ cúng tụng. Sau đó các chú bé được bước vào đền. Cuối cùng, sau một khoá lễ ngắn nữa, các em mới được thọ thực trong bình bát theo giới luật từ thời Đức Phật.







Vòng quanh Patan
    Các Sakya này sẽ ăn chay và mặc y vàng suốt ba ngày tiếp theo. Đến chiều ngày thứ tư, phụ huynh đưa các em trở lại Golden Temple. Với một nghi lễ trang trọng, các em được xả bỏ nghiệp báo quá khứ, thay đổi chiếc y vàng bằng toàn bộ quần áo, giày dép, mũ nón mới.
Tục lệ cổ xưa này với nhiều biến thể từ cổ tục Hindu của dòng tộc Sakya hầu như ít người được biết, ngay cả các học giả Tây phương cũng ngộ nhận đây là phong tục Hindu. Tôi đã thường cầu nguyện chư Phật hộ trì cho tâm nguyện nghiên cứu về gia tộc Sakya, có lẽ vì thế nên có được may mắn này chăng? Liên hệ với những chi tiết trong lịch sử, tục lệ này có lẽ xuất phát từ sự ngưỡng mộ và tôn vinh một vĩ nhân của gia tộc Sakya: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và buổi lễ xuất gia tập thể của 500 vương tử Sakya khi đức Phật về thăm quê hương Kapilavastu. Ngoài ra, có lẽ còn để trả nghiệp trong quá khứ về việc rải thuốc độc xuống sông đưa đến hậu quả Vidudabha (Tần Bà Lưu Ly) tàn sát dòng họ và tiêu diệt vương quốc Sakya. Vì thế, những hậu duệ của gia tộc Sakya, sau biến cố ấy (hơn 2.400 năm trước) không bao giờ rời xa Phật giáo - nơi họ tìm thấy an lạc trong đời này và những đời sau.
                                                                                  
                                                                             Patan-2006
                                                                        Chỉnh sửa 8/2010
                                                                           Nguyễn Phú